Những ai từng ghé thăm và yêu thích miền sông nước, hẳn sẽ muốn mang một chút “hương vị” của vùng đất này làm quà tặng cho mọi người. Đặc sản Miền Tây làm quà, vừa phải đảm bảo thơm ngon mà vẫn thể hiện được cái nét tinh tế đặc trưng của nơi đây. Bạn hãy tham khảo gợi ý của 3blackdogs dưới đây của nhé.
Các món ăn ngon đặc sản Miền Tây
1. Lẩu mắm
Thưởng thức Lẩu mắm là món ăn đặc sản của Miền tây Nam Bộ, ai đã ăn một lần thì rất dễ nghiền. Lẩu mắm mang hương vị đậm đà đặc trưng cho Miền tây mà nếu thưởng thức qua một lần bạn sẽ nhớ mãi không thôi.
Lẩu mắm là lựa chọn yêu thích của nhiều người vào ngày mưa, tiết trời se lạnh. Người miền Tây thường chuẩn bị món ăn này để tiếp đãi khách quý đến chơi nhà. Mắm cá sặc hoặc cá linh là 2 nguyên liệu ưa dùng khi chế biến nước lẩu bởi vị đậm, thơm nồng.
Nước lẩu mắm phải được ninh từ xương heo. Để tăng vị thơm, ngậy, người miền Tây thường cho thêm nước dừa tươi khi ninh. Ngoài ra, nước dùng còn có cà tím, mướp đắng… Khi ăn, thực khách sẽ nhúng thịt ba chỉ, tôm, mực, cá… cùng nhiều loại rau như cải, bông súng, điên điển… vào nồi lẩu đang sôi.

Có thể nói đỉnh cao nghệ thuật thưởng thức mắm của người dân xứ Nam bộ chính là lẩu mắm: vị thơm lừng của nồi mắm, vị ngọt của cá, tôm, mực cùng vị giòn giòn của các loại rau sống, hòa quyện vào nhau tạo nên một món ăn đặc trưng của Nam bộ.
Đây còn là món ăn thể hiện nét tài hoa, khéo léo trong nghệ thuật nấu ăn của người Nam Bộ thể hiện qua cách trang trí món ăn và trong cả cách ăn qua cách phối hợp màu sắc thu hút nhãn quang của thực khách có đủ sắc, hương, vị trong từng nguyên liệu: trắng, xanh, tím, vàng… và đủ vị ngọt, mặn, cay.
2. Cá lóc nướng trui
Cá lóc là loại cá nước ngọt rất phổ biến ở Việt Nam, cũng được người dân Việt Nam ưa chuộng và sử dụng trong bữa ăn hàng ngày. Có rất nhiều món ăn với cá lóc ngon, nhưng để trải nghiệm hương vị trọn vẹn nhất của cá lóc thì chỉ có duy nhất món cá lóc nướng trui.
Cá lóc đồng (sống dưới đồng ruộng) là nguyên liệu chính để làm món nướng trui, bởi loại cá này dai và chắc thịt hơn so với cá lóc nuôi. Khi chế biến món ăn này, ta không cần phải sơ chế quá cầu kỳ, không cần mổ bụng, không cần cạo nhớt, không cần đánh vảy và cũng không cần ướp gia vị mà chỉ cần rửa sạch cá, sau đó xiên thanh tre tươi từ miệng cá đến đuôi cá rồi cắm xuống đất phủ rơm khô lên.
Thông thường, ta sẽ cắm đầu cá hướng xuống đất đuôi thẳng lên trời, làm cá rỏ nước xuống từ từ trong lúc nướng, thịt cá sẽ dẻo và thơm hơn.

Rơm để nướng cá cần lấy vừa đủ, để khi rơm vừa cháy hết thì cũng là lúc cá vừa chín tới. Rơm ít sẽ không đủ độ nóng để làm chín cá, cũng không làm dậy lên mùi thơm đặc trưng của món ăn này. Rơm quá thừa thì làm khét cá, mất đi độ ngọt tự nhiên của cá.
Khoảng 10-15 phút khi tàn tro thì cá cũng vừa chín tới, dễ dàng cảm nhận được qua mùi thơm của cá nướng xen lẫn chút khét nồng từ rơm rạ. Cá được lấy ra khỏi bếp tro, dùng dao cạo hết lớp vảy cháy khét bên ngoài. Nhưng đúng điệu nhất vẫn là dùng rơm khô có sẵn tại đồng, chà sạch lớp vảy khét, trong khi chà cần chú ý không để làm rách lớp da cá giòn thơm.
Cá lóc nướng trui có thể ăn với các loại nước chấm như: mắm ngọt, mắm me, mắm nêm. Nhưng món chấm được người miền Tây ưa dùng hơn cả là muối ớt hột. Những thớ cá trắng thơm được cuộn tròn trong lát bánh tráng, ăn kèm ít chuối chát, lá cóc, bún tươi, dưa leo và khế hòa quyện với vị cay xè, mặn mặn của muối ớt hột chắc chắn sẽ làm thỏa mãn khẩu vị của bất kỳ ai khó tính nhất.
3. Mắm bò hóc
Hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có đồng bào dân tộc định cư làm phong phú nét sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng. Về mặt ẩm thực, họ để lại những dấu ấn đặc trưng với những đặc sản riêng biệt. Nổi bật trong số đặc sản ấy là mắm bò hóc, một đặc sản lừng danh của đồng bào dân tộc Khmer.
Nguyên liệu chính để làm món bò hóc là các loại cá mùa nước nổi. Người Khmer thường dùng cá lóc hoặc cá linh để chế biến loại mắm này bởi cá lóc, cá linh có nhiều thịt và thịt rất ngọt khi ủ lâu ngày. Cách làm mắm tuy không khó nhưng đòi hỏi sự cẩn thận và phải tỉ mỉ trong cách kết hợp các gia vị.

Mắm bò hóc ngoài vị ngọt lành của cá còn có vị thanh tao của gạo do được ủ dài ngày. Đặc biệt, phía trên lớp cá, có lớp nước mắm sóng sánh đặc dùng để làm nước chấm hay nêm canh rất ngon.
Trong một số món ăn đặc trưng của người dân Nam Bộ không thể thiếu gia vị đậm đà của mắm bò hóc như món bún num bò chóc, bún nước lèo, bún mắm, các món canh hay lẩu…
Người dân xem mắm là món ăn đặc sản và luôn sử dụng mắm trong các bữa tiệc gia đình hay tiệc tùng, đình đám. Trong những bữa tiệc đãi khách phương xa, mắm bò hóc chính là nguyên liệu trong các món ăn của đồng bào dân tộc. Đó cũng là cách mà người dân giới thiệu đặc sản của dân tộc mình.
4. Lẩu cua đồng
Lẩu cua đồng như tên gọi của nó là một món lẩu với thành phần nguyên liệu chủ đạo là cua đồng. Cua đồng vốn là một nguồn thực phẩm dân dã, rất phổ biến trên vùng đồng bằng sông Cửu Long, thành phần dinh dưỡng trong cua đồng rất phong phú, đặc biệt là canxi giúp xương chắc khỏe.
Món ăn dân dã này có nhiều ở các tỉnh miền Tây, tùy từng địa phương mà được biến tấu với các thành phần khác nhau như: cua đồng, tôm, ghẹ, các loại rau… tuy nhiên, dù có biến tấu như thế nào đi nữa nó vẫn giữ được hương vị ngọt thanh mát đặc trưng của cua đồng.

Để có được một nồi lẩu thơm ngon, người đầu bếp phải cất công từ khâu chọn cua đến khâu chế biến. Cua đồng phải còn sống, được rửa sạch, bóc vỏ yếm, gỡ mai nạo lấy gạch trong cua để riêng, còn lại cho vào cối giã nát, sau đó lọc lại, cho ít muối, hạt nêm, tiêu. Sau đó, cho hỗn hợp cua vào nồi, đặt lên bếp để lửa vừa rồi chờ đến khi sôi và tiến hành vớt váng cua nổi trên mặt nước.
Món ăn thêm phần hấp dẫn khi kết hợp với nhiều loại rau đồng quê: rau má, rau ngót, rau mồng tơi và mướp hương… , khi ăn tới đâu nhúng tới đó, thực khách cũng đủ thấy khoái vị. Chính cái hương vị đặc sắc, mùi thơm ngon ngọt của cua, cùng với những loại rau dân giã nơi sông nước miền Tây đã làm nên món lẩu cháo cua đồng được rất nhiều thực khách mỗi khi thưởng thức. Nếu bạn đã một lần nếm qua hương vị của lẩu cua đồng thì không thể nào quên.
5. Bún cá Châu Đốc
Ở miền Tây, nhiều món bún cá có nguồn gốc từ Campuchia, dần dà được người dân biến tấu cho hợp khẩu vị, trong đó bún cá Châu Đốc (An Giang) giữ được gần như nguyên vị so với bản gốc.
Bún cá Châu Đốc xưa dùng con cá linh nấu lấy nước ngọt, thêm tôm khô cho đậm đà và không thể thiếu ngải bún, mắm ruốc, sả, ớt, tỏi, nghệ tươi. Bún cá Châu Đốc ngày nay vẫn giữ gần như nguyên bản, mộc mạc với cá lóc, nước lèo và bún tươi.
Nước lèo được nấu bằng xương ống ninh lấy nước ngọt, vừa ninh phải vừa vớt bọt để nước dùng luôn trong. Con cá lóc đồng làm sạch luộc chín trong nước luộc sả và củ nghệ đập dập nên không tanh, lại có mùi thơm thoang thoảng. Thịt cá được gỡ xương, đem ướp gia vị rồi xào sơ với nghệ để thịt săn lại, có màu vàng đẹp mắt.

Gia vị nêm nếm cho nước dùng có mắm cá linh, mắm ruốc lược bỏ xác, thêm ngải bún, nghệ giã nát lọc lấy nước. Bếp lửa để liu riu, hương vị của các nguyên liệu hòa vào phần nước xương hầm trước đó tạo ra thứ nước dùng quyến rũ, đậm đà.
Tô bún dọn ra thơm nồng mùi cá và nghệ, nước lèo vàng phủ lên cọng bún trắng, kèm theo từng thớ thịt cá lóc, thịt heo quay cắt miếng vừa ăn. Ai thích ăn đầu cá thì gọi để riêng trong tô nhỏ, đầu cá lóc ăn beo béo còn nguyên bộ lòng chấm với muối ớt chanh hay nước mắm ngon dầm ớt hiểm.
Đĩa rau xanh ăn với bún cá là điển hình cho sự trù phú của vùng Tây Nam Bộ, có bông điên điển, bông súng, rau đắng, bắp chuối hột, rau muống bào nhuyễn và có khi còn thêm ít cọng đậu đũa, rau nhút bẻ khúc.
6. Bún nước lèo Sóc Trăng
Bún nước lèo là đặc sản Sóc Trăng và là món ăn đặc trưng của người Khmer. Về Sóc Trăng là bất cứ ai cũng đều nằng nặc đòi thử món ăn thú vị này. Ăn thử một lần mới thấy, đi đâu cũng không dễ tìm thấy các hương vị đặc trưng này của vùng đất Sóc Trăng.
Từ lâu, Sóc Trăng được ví như là “thủ phủ” của bún nước lèo. Sở dĩ người ta gọi tên là bún nước lèo là vì đây là món ăn của sự đoàn kết; là sự kết hợp của nền ẩm thực trong văn hóa của người Kinh – Hoa – Khmer. Mỗi thứ một ít tạo nên một món đặc sản tuyệt vời.
Món bún này phổ biến ở nhiều tỉnh miền Tây, mỗi địa phương đều có nhưng biến thể riêng nên hương vị mỗi nơi mỗi khác. Tuy nhiên, đối với người dân Sóc Trăng, một tô bún nước lèo ngon thì nước lèo phải trong vì nước lèo chính là “linh hồn” của tô bún. Hương vị là sự hòa quyện, kết nối tuyệt vời giữa mắm, ngải bún và sả.

Để làm nên một tô bún nước lèo Sóc Trăng ngon nhất định không thể thiếu những sợi bún trắng ngà vừa mềm mát nhưng vẫn đủ độ dai. Ngon nhất chính là loại bún của người Sóc Trăng được làm từ loại gạo dẻo. Người ta dùng gạo mùa đã được ngâm nước qua đêm rồi mới đem xay trong cối đá dạng bột nước để tạo thành những sợi bún trong, dẻo thơm.
Ngoài ra, trong tô bún nước lèo của người Sóc Trăng còn có những lát thịt trắng nâu của những con cá lóc đánh bắt từ môi trường thiên nhiên. Lại càng ngon hơn khi khách vừa ăn vừa hít hà vì vị cay, chua của ớt, giấm (hoặc chanh).
Món ăn này thích hợp nhất cho các buổi sáng sớm, vào buổi chiều tối hoặc những ngày mưa lạnh. Cái nóng ấm của tô bún mang lại cho ta một cảm giác ấm áp vô cùng.
7. Đặc sản chuột đồng
Nếu đi dọc khắp miền Tây vào mùa nước nổi, ở đâu thực khách cũng có thể bắt gặp món thịt chuột đồng thơm ngon, hấp dẫn mời gọi khách phương xa. Tuy nhiên để nói tìm được chuột đồng ngon nhất thì phải đi về miệt vùng Cao Lãnh (Đồng Tháp).
Là vựa lúa của miền Tây, Đồng Tháp có hơn một nửa diện tích của tỉnh là trồng lúa. Theo đó chuột đồng ở đây nhiều vô kể sau mỗi mùa thu hoạch. Chuột lớn lên từ những mùa gặt, vì thế thịt chuột ở đây rất sạch, thơm và béo ngậy như thịt gà, nghiễm nhiên trở thành món ăn dân dã đặc sản của địa phương.

Dưới bàn tay tài hoa của những người đầu bếp “nghiệp dư”, chuột đồng vẫn có thể chế biến thành nhiều món khác nhau tuyệt hảo: Chuột xào lăn, chuột nướng, xé phay, chiên rôti, chuột xối mỡ, luộc cơm mẻ, thịt chuột xào sả ớt gói với rau sống và bánh tráng… Mỗi món là một hương vị khác nhau.
Trong số này, đặc biệt nhất phải kể đến món chuột quay lu. Chuột quay lu ngon nhất được lựa chọn là những chú chuột của mùa lúa tháng 9, tháng 10 hàng năm. Lúc này chuột đã ăn no lúa chín, béo múp, da thịt sạch sẽ.
8. Bò bảy núi An Giang
Núi Sam là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp như thể: Chùa Hang, Tây An Cổ Tự, Lăng Thoại Ngọc Hầu,… gần đó còn tồn tại những đặc sản nổi tiếng nỗi tiếng khác ví như món bò bảy núi là món không thể thiếu trong các tiệc giỗ, đám cưới,… đều phải sở hữu món này.

Món bò bảy núi gồm những món mà người thợ nào thì cũng thông thạo làm đó là: lòng bò luộc, bò đun bánh hỏi, cháo đầu bò, bò khìa bánh mì, bò xào lá giang, bò lúc lắc, bò bít tết dù thưởng thức món nào thì cũng thấy thú vị và ngon miệng. Du khách ở xa đến đây một lần ai cũng để dành một chút thời gian để thưởng thức những món lạ của vùng bảy núi này.
Du khách sẽ không khỏi bị hấp dẫn bởi các quán ăn treo biển hiệu “thịt bò bảy món” với lòng bò luộc, bò đun bánh hỏi, cháo bò, bò khìa bánh mì, bò xào lá giang, bò lúc lắc và bò bít tết. Dù thưởng thức món nào du khách cũng đều cảm thấy thích thú vì ngon miệng.
9. Bò Tùng Xẻo
Bò tùng xẻo là món độc đáo của vùng đất Nam bộ, còn có tên gọi là bò gác chéo chân, có lẽ xuất phát từ tư thế bắt chéo chân bò để chế biến món này.
Người dân Nam bộ thường truyền cho nhau về lịch sử món ăn này. Cách đây hơn nửa thế kỷ, các chủ điền vùng khẩn hoang Nam bộ thường mở tiệc nhậu ngay trên sân vườn hoặc đồng ruộng trong dịp cuối năm hay đầu năm mới. Thức ăn cho những buổi tiệc kiểu này là nguyên một con bò non được nướng qua lửa than hồng. Người dân lưu truyền món ăn và hiện đã trở thành món đặc sản nổi tiếng.
Để có món bò tùng xẻo đạt chuẩn người chế biến phải cẩn thận từ khâu đầu tiên là chọn bò. Bò là loại bò con còn nhỏ, không được quá non thịt sẽ nhão càng không được già vì thịt dai.

Đặc biệt, nhiều chủ điền còn muốn tự tay nuôi và vỗ béo chú bò đã được lựa chọn. Thường, thức ăn phải là loại lá cây, cỏ ở vùng đồng bằng, thung lũng đất đai màu mỡ thì thịt sẽ trắng hồng và ngọt hơn bình thường.
Bò được cắt tiết, cạo lông rồi mổ bụng, lấy hết bộ lòng ra, dùng dây thép khâu lại, cho vào bụng các loại lá thơm như đinh lăng, tía tô, lá sả… xong lấy dây khâu thật chặt lại. Người ta đặt bò trên 2 thanh sắt (hoặc 2 cây tre to) gác chéo, cột bốn chân bò vào bốn nhánh của 2 thanh sắt, bắt đầu công đoạn nướng đến khi bò chín vàng là được.
Công đọan này đòi hỏi sự cần mẫn, phải biết cách giữ lửa như thế nào cho vừa đủ để cả con bò chín đều đặn. Nếu người nướng lơ là một tý để lửa quá bén, thịt sẽ cháy sém không ngon lại không thẩm mỹ. Thịt bò tùng xẻo ngon phải có màu đỏ hồng nhưng không sống, da vàng rộm mà không khô, không dai cũng không bị hôi mùi khói.
Với món bò tùng xẻo khi ăn dùng dao bén xẻo từng miếng chỗ thịt mình ưa thích, ăn tới đâu xẻo thịt tới đó. Lúc ăn người ta chấm với tương hoặc muối tiêu. Và đặc biệt không thể thiếu các loại rau khế chua, chuối chát cùng vài ly rượu đế, sang hơn thì sâm banh hay vang đỏ để hương vị thêm đậm đà.
10. Đuông dừa
Đuông dừa là ấu trùng của bọ cánh dương làm tổ trong phần cổ hủ mềm của cây dừa và hút chất dinh dưỡng trong đó. Đây là phần ngon nhất, sạch nhất và giàu dinh dưỡng nhất của cây dừa. Vì vậy, đuông dừa là một nguồn thực phẩm sạch và béo bổ, vì nó ăn phần tinh hoa nhất của cây dừa.
Đuông dừa được chế biến thành nhiều kiểu như nướng, nấu cháo, làm gỏi,…nhưng món đuông dừa tắm mắm là món ăn dễ làm và phổ biến nhất.
Đuông dừa tắm mắm là món ăn bao gồm những con đuông dừa còn sống, được ngâm trong bát mắm cay mằn mặn. Đây là món nhậu khoái khẩu của người miền Tây, tuy nhiên hiện nay là món đặc sản hiếm ở nhà hàng và thường có giá rất cao.

Để bắt đuông dừa làm món đuông dừa ngâm mắm, người ta phải nhận diện xem cây dừa có bị đuông phá hay không. Người miền Tây rất giỏi trong việc này. Cứ những cây nào đã chết, hoặc héo ngọn, lá bị quặp, kiểu gì cũng có đuông dừa sống trong đó.
Người ta dùng búa để đốn đổ cây dừa, sau đó dùng dao, khoét cổ hủ dừa ra và bắt từng con một. Một ổ đuông có khoảng tầm 15-20 con hoặc hơn. Loại này nhà hàng bán ra trung bình khoảng 25 nghìn 1 con, thường được các đại gia có thú ăn lạ săn lùng.
Món đuông dừa có vị béo của đuông như kiểu nước cốt dừa, hòa với vị mặn và mùi hương độc đáo của mắm nhĩ, vị cay của ớt, vì vậy nhanh chóng lấy lòng thực khách gần xa, dù cách thưởng thức có vẻ hơi “kinh dị”.
Nếu có cơ hội đến với miền Tây, và nếu đủ lòng can đảm để thưởng thức món đuông dừa tắm mắm đặc biệt này, thì hãy thử một lần cho biết, cái vị béo ngậy, thơm lừng mà món ăn bổ dưỡng này mang lại, bạn nhé!
Xem thêm: Cà Mau Có Gì Chơi? Review 15+ Địa Điểm Vui Chơi Độc Đáo
11. Lẩu cá linh bông điên điển
Nếu bông súng mắm kho đậm đà, cá lóc nướng trui ngọt thơm khó cưỡng, cá rô kho tiêu dân dã mà khó quên, ba khía muối hấp dẫn bởi mùi vị quyến rũ thì lẩu cá linh bông điên điển lại là món ăn mang hương vị ngọt thanh, giản dị mà thoảng mùi hương đồng gió nội miền sông nước. Có thể nói rằng ai đến miền Tây mà không thưởng thức món ngon này thì quả thật là điều đáng tiếc.
Hai thành phần chính trong nồi lẩu là cá linh và bông điên điển chỉ xuất hiện vào khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 hằng năm nên nếu đang lên lịch du lịch miền Tây vào ngay thời gian này thì nhất định bạn phải thử món ăn đặc biệt này nhé.
Bông điên điển được xem là loại hoa đặc trưng của miền sông nước. Loài hoa này mang hương vị rất đặc biệt, vừa có độ giòn, thơm vừa bùi, béo mà lại nồng đượm hương thơm nhẹ nhàng, phủ lên chiếc áo vàng rực màu của lúa chín, của “hương đồng cỏ nội”.

Cá linh cùng với cá lóc đồng, cá bông lau, cá sát, cũng là loại cá khá phổ biến ở đây. Người dân địa phương có thể dễ dàng bắt được những chú cá linh tươi sống còn non ngay tại kênh, rạch, sông…
Cá linh kết hợp cùng bông điên điển xứng danh là “cặp bài trùng” không thể thiếu trong món lẩu cá linh bông điên điển. Vì chỉ khi xuất hiện cùng nhau, món ăn mùa nước nổi miền Tây này mới thật sự bung tỏa hết hương vị thơm ngon đặc biệt của chúng làm cho thực khách đã thưởng thức dù chỉ một lần cũng khó có thể quên được.
Bên cạnh hai nguyên liệu chính thì làm nên nồi lẩu miền Tây thơm ngon nức lòng còn có những thành phần khác tạo điểm nhấn cho hương vị món ăn như ngò gai, tỏi bằm, nước mắm, nước dừa, dầu ăn cùng các loại gia vị như đường, bột ngọt, ớt sừng, tiêu.
Với món lẩu cá linh, bạn có thể ăn kèm với bún hay cơm trắng đều rất ngon. Và cũng đừng quên làm một chén nước mắm ngon kèm ớt cay xè để chấm cá nhé vì nó sẽ giúp món ăn thêm phần hấp dẫn và đậm đà.
12. Hủ tiếc Sa Đéc
Nhắc tới tỉnh Đồng Tháp chúng ta không khỏi liên tưởng tới hủ tiếu Sadec – món ăn ngon được rất nhiều người yêu thích. Không chỉ là người dân nơi đây mà ngay cả khách du lịch trong và ngoài nước khi đến Đồng Tháp đều không bỏ lỡ cơ hội được thưởng thức những tô hủ tiếu còn nóng hổi, hương thơm phảng phất của xứ Sadec.
Hủ tiếu Sadec mang lợi thế là ở ngay tại địa phương đã có nghề làm bột gạo (đây là nguyên liệu chính của món hủ tiếu Sadec) truyền thống đã có từ hơn 100 năm nay.
Nghề làm bột gạo tập trung chủ yếu ở xã Tân Phú Đông, tp Sa Đéc, thuộc tỉnh Đồng Tháp. Chính vì vậy mà tên gọi của món ăn này đã được người dân đặt dựa theo tên của thành phố Sadec.

Bột gạo Sadec là sản phẩm rất nổi tiếng của nhiều địa phương, nó được dùng làm nguyên liệu phổ biến cho các món bánh phở, bún ăn liền, hủ tiếu, thậm chí còn được xuất khẩu ra một số nước ngoài từ trước những năm 1975 cho đến nay.
Đặc điểm sợi hủ tiếu Sadec được làm bằng bột gạo, mang màu trắng sữa, cọng to, sợi rất mềm, có độ dai vừa phải mà không bị bở. Nếu thử món hủ tiếu Sadec, thực khách sẽ cảm nhận được hương vị đậm đà, trọn vẹn của nước dùng kết hợp với từng sợi hủ tiếu dai và trong.
Tô hủ tiếu đầy đủ màu sắc với một ít cần tây, giá độ, chút rau thơm, hẹ…cùng mùi hương hấp dẫn chắc chắn sẽ khiến thực khách khó kìm lòng!
13. Bánh xèo miền Tây
Bánh xèo có mặt ở miền Tây đã từ rất lâu đời, đến nay đã trở thành một món ăn không thể thiếu trong những buổi hội hè, vui chơi của người dân nơi đây. Bánh xèo miền Tây mang trong mình những nét rất riêng, cái “hồn cốt” của ẩm thực miền Tây Nam Bộ mà không thể lẫn vào đâu được.
Điểm khác biệt ở bánh xèo miền Tây đó là kích thước rất lớn và mỏng hơn so với bánh xèo ở những nơi khác. Đặc điểm này tượng trưng cho lối sống thoải mái, phóng khoáng đặc trưng của người dân miền Tây. Thưởng thức một đĩa bánh xèo ở đây thì no nê quên lối về.

Bánh xèo miền Tây là sự kết hợp hài hòa giữa thứ bột gạo quen thuộc cùng thịt ba chỉ béo ngậy, tôm tươi sống, đậu xanh thơm ngon và giá sạch. Sau đó, hỗn hợp bột này được tráng trên những chảo nóng tạo ra một âm thanh “xèo xèo” rất vui tai, nghe thôi cũng đã đủ thèm thuồng.
Sau khi chế biến xong, món bánh xèo nóng hổi sẽ được bày ra đĩa, cắt thành từng miếng vừa ăn và được ăn cùng với rau rừng và nước mắm chua chua, ngọt ngọt. Bánh xèo có một hương vị hết sức hấp dẫn, thật không hổ danh là thứ đặc sản “nức tiếng” miền sông nước.
14. Canh gà lá giang
Nếu có dịp đi các tour miền Tây 2 ngày 1 đêm hoặc tour Cần Thơ, để ý sẽ thấy thực đơn thường có món canh gà lá giang. Đây là đặc sản miền Tây khá bắt cơm, được nhiều thực khách yêu thích.

Lá giang vốn là loại rau dại, có vị chưa, khi nấu với gà ta sẽ tăng vị thơm và tạo ra món canh chua chua, ngọt ngọt, đậm đà hương vị hơn. Canh gà lá giang khá dễ ăn, dù thưởng thức vào bất kì lúc nào, cũng thấy được vị ngon vốn có của nó.
15. Gà nướng đất sét
Gà cái bang (hay gà ăn mày), thực chất là tên gọi dùng để chỉ món gà nướng đất sét. Đây là món ăn dân dã, gắn liền với người dân miền Tây Nam Bộ trong thời kỳ khai hoang, mở đất. Có rất nhiều câu chuyện thú vị được lưu truyền về nguồn gốc của món ăn này.
Thông thường, người ta sẽ chọn gà rừng hoặc gà chạy bộ làm nguyên liệu. Gà sau khi bắt về đem làm sạch, khoét một lỗ tại vị trí phao câu rồi khéo léo móc hết ruột ra. Ruột gà lại được tỉ mỉ làm sạch, ướp gia vị cho thấm, riêng phần huyết thì để cho đông rồi cho lại vào bụng gà cùng với bộ lòng.
Trong quá trình chế biến, người ta thường cho thêm lá chanh và sả băm vào bụng gà để khử đi mùi tanh. Khi gà đã ngấm gia vị, người chế biến tiếp tục lấy lá sen hoặc lá chuối già bọc kín gà rồi đắp đất sét lên.

Đất sét dùng trong món ăn cũng phải được mang từ bờ sông về, nhào với nước sao cho vừa đủ dẻo để làm tăng sự kết dính. Kỹ thuật đắp đất sét cũng quyết định đến chất lượng món ăn. Phải đắp làm sao cho vừa bo tròn đều con gà và vừa đủ dày để nướng chín thịt.
Gà được nướng trong khoảng 2 giờ đồng hồ. Trong suốt quãng thời gian này, đầu bếp cần chọn củi khô, chất rơm lên đốt nóng liên tục. Chỉ có vậy, hơi nóng mới đủ sức lan tới bên trong. Từ miếng đất dẻo dính ban đầu, gà đập đất khi hoàn thiện phải có lớp đất khô, săn cứng. Bóc đất tới đâu, lông gà dính theo tuột ra đến đó, để lộ phần da gà óng ả, thân gà tròn trơn mà thơm lừng hấp dẫn.
Gà nướng xong để nguyên con, đem xé thịt bóp cùng muối tiêu chanh và rau răm. Từng miếng gà nướng vàng nâu óng ả thơm lừng, với phần da ăn hơi giòn ngậy nhưng thịt bên trong lại mềm và đậm đà. Người ta thường ăn kèm thêm chút xôi khi thưởng thức gà nướng đất sét.
Từ món ăn phổ biến của xứ miệt vườn, gà nướng đất sét đã trở thành một trong những đặc sản được rất nhiều du khách yêu thích. Món ăn chẳng có gì cao sang, lại được chế biến từ những sản vật sẵn có nhưng lại hấp dẫn đến khó tả và đem lại nỗi khắc khoải, nhớ mong cho người xa xứ.
16. Gỏi củ hủ dừa
Nói đến ẩm thực của miền Tây không thể nào bỏ qua món gỏi củ hũ dừa – một món ăn xa xỉ, là sự hòa quyện tuyệt vời của nhiều nguyên liệu. Nói đây là món ăn xa xỉ bởi muốn chế biến, người ta phải đốn cả một cây dừa trồng nhiều năm để làm nguyên liệu chế biến.
Củ hũ dừa là phần trên của cây dừa, phần trắng nõn nằm sâu trong thân, bao gồm chồi non chưa nhú ra bên ngoài và cuống lá. Đây là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe.
Củ hũ dừa được chế biến ra các món ăn thơm ngon như xào với thơm (dứa), ngâm xổi, canh nấu thịt, củ hũ dừa tôm thịt nhưng làm gỏi là món ăn được nhiều người ưa thích hơn cả bởi có vị chua ngọt vừa ăn, mát, giòn, thơm và lại thanh đạm, ít béo.

Để làm món ăn này cũng khá kỳ công. Củ hũ dừa được bào thành từng lát mỏng, sợi dài bằng đốt ngón tay. Muốn củ hũ dừa giòn và không bị thâm, người ta ngâm vào nước đá có vắt vài giọt chanh rồi vớt ra, để ráo nước. Theo những người sành ăn, gỏi được làm từ củ hũ dừa xiêm được xem là ngon nhất.
Ngoài ra, nguyên liệu để làm gỏi còn có tôm sú bóc nõn, thịt ba chỉ, tai lợn thái mỏng. Các nguyên liệu trên được trộn cùng nhau, thêm chút gia vị, đường tạo thành món gỏi hấp dẫn, đậm đà hương vị.
Nước chấm của món gỏi củ hũ dừa được pha chua ngọt cùng với tỏi ớt cay giúp bạn thêm ngon miệng. Món gỏi củ hũ dừa có thể ăn kèm bánh phồng tôm, hoặc cơm trắng rất đậm đà. Món củ hũ dừa xiêm trộn với tôm thịt phải dùng ngay, như thế bạn mới có thể cảm nhận được hết độ giòn ngọt của món ăn này.
17. Bánh Giá chợ Giồng
Bánh Giá (hay còn gọi là bánh Vá), món ăn đặc sản mang đậm hương vị miền Tây dân dã, bình dị có nguồn gốc ở xứ Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Dẫu thế, trong bất kỳ vần thơ hay câu hát nào, bánh Giá lại luôn gắn liền với địa danh chợ Giồng.
Ở Tiền Giang, người ta làm bánh Giá đơn giản lắm. Nguyên liệu bao gồm giá sống đã ướp qua gia vị, gan heo, tôm tươi, trứng gà, đậu nành xay, bột gạo hòa lẫn với nhau tạo hỗn hợp sánh nước. Muốn bánh Giá được nở và xốp, người ta đánh cho đều tay thật kỹ rồi mới mang đi chiên trong chảo ngập dầu.
Theo đó, cứ múc vá bột, đặt giá sống, tôm và thịt heo đã ướp sẵn rồi lại thêm một lớp bột nữa để phủ toàn bộ nguyên liệu. Dần dần, cho chiếc vá đã sẵn những thức nguyên liệu thơm ngon vào chảo dầu sôi tới khi vàng ruộm màu cánh gián.

Bánh Giá có thể ăn nhiều kiểu, đa dạng cách thưởng thức. Ai ăn sáng nhưng muốn no căng bụng thì dùng chung với mỳ, bánh ướt,… Ai muốn ăn chơi để thưởng thức cái vị tươi ngon của tôm, thanh mát từ giá sống và giòn rụm nơi bột gạo thì thưởng thức kèm với rau sống tươi xanh.
Về với Gò Công, bạn dễ dàng tìm thấy nhiều địa điểm bán món bánh Giá thơm ngon, giòn rụm này. Mặc dù cho chút nhiều dầu mỡ, nhưng vì ngại thế mà bỏ qua bánh Giá khi đến Tiền Giang là chuyến đi của bạn đã thiếu đi một phần đặc sắc rồi đấy nhé!
18. Bò giá tréo
Bò giá tréo là món ăn đặc sản đặc sắc của xứ sở Sóc Trăng. Bò phải là loại bò tơ vừa lú sừng, cạo lông cho thật sạch rồi treo lên giá tréo. Dưới dàng giá bắt tréo hình chữ X là than nướng rực lửa. Tương tự món heo quay, hơi nóng thổi lên làm da bò nở ra cứng cứng giòn giòn.

Thịt bò giá tréo là thịt tái (Chưa chín hoàn toàn) nên chúng thường được tưới 1 lớp chanh và tiêu lên bên trên. Khi ăn kèm với chuối sống, rau sống. Nước chấm món này cũng khá đặc biệt. Món nước chấm được làm từ mắm nêm từ mắm cá cơm trộn với khóm bằm nhuyễn.
19. Canh chua cá bông lau
Từ lâu, các món chế biến từ cá bông lau, một trong những loài cá đặc sản vùng sông Hậu, đã tạo nên phong vị ẩm thực rất riêng tại các nhà hàng, quán ăn ở Sóc Trăng nói chung và cù lao nói riêng.Thịt cá bông lau trắng, thơm ngon, không tanh, lại lành nên được chế biến thành nhiều món ăn ngon khác nhau.
Cách chế biến món canh chua này cũng khá đơn giản, thành phần chính vẫn là cá bông lau, trái bần chính hoặc nước cốt bần, khóm, các loại rau đồng quê ăn kèm, phù hợp cho món canh này như bông súng, rau nhút, bông so đũa, cà chua…

Tùy vào khẩu vị từng người, từng vùng miền mà thợ nấu sẽ nêm nếm với khẩu vị phù hợp, nhưng nét đặc trưng riêng đối với món canh chua của người miền Tây là có vị hơi ngọt và vị chua thanh. Món canh chua thường ăn kèm với bún hay cơm trắng cùng với cá kho tộ đều rất ngon.
Cá bông lau nấu canh chua trái bần là một món ngon đặc sản giải nhiệt, bổ dưỡng, được nhiều du khách ưa chuộng, đã đến Cù Lao Dung là nhất định phải thưởng thức món ăn này.
20. Bún nước kèn
Ngay từ tên gọi có khả năng “phát ra âm thanh”, bún kèn đã gợi sự tò mò của du khách. Theo người dân địa phương, từ “kèn” dùng để chỉ một trong những thứ nguyên liệu chính tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn, đó là nước cốt dừa.
Đây là từ được vay mượn từ đồng bào người Khmer, thể hiện ý nghĩa “nấu bằng nước cốt dừa” nên món ăn này được gọi là bún kèn.
Thoạt nhìn, bún kèn khá giống các món bún khô, bún chan nước lèo khác ở Kiên Giang nhưng nguyên liệu làm nên món ăn này chính là yếu tố tạo nên sự khác biệt.
Điều làm sự khác biệt của bún kèn đó là cá được xay nhuyễn giống chà bông chứ không để nguyên miếng. Do đó mà vẫn giữ được hương vị cá có vị bùi và mặn mà, thơm ngon. Sau khi được xay nhuyễn thì mang đem đi xào với sả, ớt, tỏi đến khi cá khô, giòn và có mùi thơm hấp dẫn.

Tiếp theo cho nước cốt dừa cùng nước cá luộc đã lọc bỏ xương trộn lại với nhau và nêm nếm gia vị nấu cho đến khi nước sền sền là được. Lưu ý, khi nấu nước lèo bún kèn thì không thể thiếu một số gia vị như bột cà ri, ngũ vị hương hay nước cốt dừa.
Một tô bún kèn có xanh của rau, một chút đỏ của ớt, màu cam của đu đủ bào, vàng của nước lèo và màu trắng của bún, giá. Tạo nên một món ăn không chỉ thơm ngon mà còn vô cùng đẹp mắt, hấp dẫn thực khách.
Món ăn được trộn đều, sợi bún tươi, nhỏ nhắn hòa cùng nước dùng màu vàng tươi béo ngậy, xen kẽ mớ thịt cá ngọt mềm và vị giòn của rau, có thêm miếng nước mắm ớt mằn mặn, cay cay lại càng cuốn hút.
21. Cháo cá lóc rau đắng
Cá lóc ngọt béo, tô cháo gạo rang thơm lừng và vị đăng đắng của rau là món ăn khó có thể bỏ qua khi ghé Mỹ Tho, Tiền Giang.
Tại các tỉnh miền Nam và Tây Nam Bộ, cháo là món ăn thân thuộc của mọi gia đình. Người không giỏi nấu nướng hoặc không có nhiều thời gian chỉ cần vo nắm gạo bắc nồi cháo trắng ăn với cá kho khô.
Cầu kỳ hơn thì mua ít thịt heo để có nồi cháo thịt bằm. Nhưng có lẽ phải đến khi nếm thử món cháo cá của xứ Mỹ Tho, người sành ăn mới công nhận “đây không còn mà món ăn thông thường mà chính là đặc sản”.
Không quá cầu kỳ trong chế biến nhưng muốn có tô cháo ngon khiến người ăn phải xuýt xoa thì không đơn giản. Trước tiên là gạo, đầu bếp sẽ chọn loại gạo dẻo vừa, vị ngọt và có hương thật thơm. Gạo nấu cháo không vo và nấu ngay như cháo trắng mà phải được rang trên chảo đến khi hạt vàng đều và tỏa mùi thơm.

Cá lóc chọn để nấu thường là con to để ít xương. Tuy vậy các đầu bếp kỹ tính ở Mỹ Tho thường chọn cá lóc đồng. Loại cá này tuy nhỏ hơn nhưng thịt chắc và thơm. Cá mua về đánh vảy, xát muối lên toàn thân cá để khử nhớt và bớt mùi tanh.
Để cháo tròn hương vị, nước nấu cháo không được dùng loại nước máy có lẫn mùi clo. Một số người kỹ tính dùng nước mưa hoặc nước lọc để nấu cháo. Bắc nồi lên bếp, đun nước sôi cho gạo rang vào nấu đến khi nở, nêm muối, bột ngọt, đường và nước mắm. Cuối cùng, cá lóc được cho vào đun để nước ngọt và mùi thơm của hòa với từng hạt cháo thì vớt cá để riêng.
Để tô cháo thêm phần hấp dẫn, sau khi nêm nếm đủ gia vị, người nấu thường lấy hành tím cho vào, ngoài ra hành lá và ngò rí xắt nhuyễn cũng là hai thứ không thể thiếu. Tương hột (đỗ tương) bằm nhuyễn cũng là bí quyết giúp nồi cháo cá có mùi vị đặc trưng.
Tại Mỹ Tho, một số quán cháo cá lóc nổi tiếng có cả hũ tương hột bằm để khách có thể dùng làm nước chấm hoặc nêm thêm tùy thích.
Cuối cùng là đĩa rau đắng đất, thứ rau đặc sản miền Nam đắng tê đầu lưỡi nhưng sau lại ngọt. Không phải loại rau đắng trồng công nghiệp có thân và lá to như cọng rau sam, rau đắng đất Mỹ Tho mọc theo các mô đất ở sau nhà có lá và thân nhỏ, vị đắng hơn.
Với món cháo cá, sự kết hợp giữa vị đắng và mùi thơm của rau như hòa quyện một cách hoàn hảo với mùi gạo rang, cá lóc và cả mùi tương có trong từng muỗng cháo.
22. Cơm tấm Long Xuyên
Cơm tấm là món ăn rất được ưa chuộng và được bày bán phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Du khách có thể thưởng thức món cơm tấm ngoài vỉa hè bình dân hay trong nhà hàng sang trọng, có thể ăn những món cơm tấm được chế biến đơn giản hoặc cầu kì. Tuy nhiên giữa bao nhiêu cách chế biến cơm tấm đa dạng, cơm tấm Long Xuyên vẫn có nét đặc sắc riêng không thể trộn lẫn.
Đầu tiên phải nói đến hạt cơm trong cơm tấm Long Xuyên. Đa phần cơm trong cơm tấm ở Sài Gòn hay nhiều tỉnh thành miền Tây, Đông Nam Bộ khác đều là loại hạt to. Riêng cơm trong cơm tấm Long Xuyên lại là loại hạt nhuyễn.
Hạt cơm chỉ to bằng một nửa hạt cơm tấm của Sài Gòn. Hương vị hạt cơm của cơm tấm Long Xuyên thơm, bùi, có vị ngọt nhẹ của gạo quê và dường như tan ra trong đầu lưỡi khi du khách vừa nếm thử.
Vì hạt cơm nhỏ nên các thành phần khác của cơm tấm Long Xuyên cũng be bé, xinh xinh. Miếng thịt sườn được thái dạng sợi dài, mỏng chứ không để nguyên miếng hay cắt lớn như ở Sài Gòn. Những cọng bì cũng nho nhỏ nhìn rất bắt mắt. Thành phần của cơm tấm Long Xuyên không đa dạng như Sài Gòn mà chủ yếu là thịt sườn, bì, trứng và đồ chua.

Trứng là loại trứng kho cũng được xắt thành từng miếng nhỏ. Thực khách nào không muốn ăn bì thì người bán sẽ cho thêm thịt sườn hoặc trứng kho. Tất cả các loại thức ăn này đều được tẩm ướp cho thấm gia vị nên màu sắc vừa đẹp lại vừa có hương vị đậm đà, thơm ngon.
Cơm tấm Long Xuyên ăn kèm với nước mắm tỏi ớt được pha chế riêng theo công thức của từng người bán và đồ chua, dưa leo, một số nơi có kèm rau xà lách.
Nhiều người Long Xuyên ăn cơm tấm của Sài Gòn hay của nhiều nơi khác đều cho rằng có cảm giác ngán hơn ăn cơm tấm Long Xuyên. Đĩa cơm tấm Long Xuyên nhìn thật xinh xắn và lạ mắt, hương vị cũng thật khác biệt. Chính vì thế món ăn này đã trở thành một trong những đặc sản nổi tiếng của Long Xuyên.
Điều thú vị là hầu như du khách chỉ có thể thưởng thức món cơm tấm đặc sắc này ngay tại Long Xuyên, An Giang. Ít khi nào ở các vùng đất khác du khách có thể tìm được món ăn này. Do đó, đến Long Xuyên và thưởng thức cơm tấm Long Xuyên ngay tại nơi sinh ra món ăn này là một trải nghiệm đầy thú vị.
23. Xôi Phồng
Chợ Mới được phù sa bồi đắp quanh năm nên cây nếp bản địa chất lượng cao, hạt tròn, đẹp. Nếp kết hợp với đậu trồng trên đất rẫy cho ra món xôi dẻo thơm. Đậu và nếp được hấp chín như nấu xôi truyền thống. Sau đó, phụ nữ đất cù lao dùng chày quết nhuyễn hỗn hợp nếp và đậu này lại với nhau. Càng quết xôi càng dẻo dai, được cho thêm dầu ăn vào để “chống” dính và tạo độ bóng.
Xôi ở Chợ Mới sau khi quết được cho vào khay hoặc quấn lại thành cuốn tròn để tiện bảo quản trong tủ lạnh. Khi dùng, khách chỉ cần cắt từng khoanh vừa ăn, chiên với dầu nóng. Xôi chiên có màu vàng ươm, thơm, ăn rất ngon.
Ăn xôi chiên phồng Chợ Mới có thể chấm với tương ớt, xì dầu hoặc ăn không vẫn “bắt”. Khách đến Chợ Mới, cù lao Giêng có thể thưởng thức xôi chiên với gà quay. Gà được nuôi thả vườn nên thịt dai và ngọt, được quay thủ công nên giữ được vị thơm của gà và mùi vị đặc trưng.

Món gà quay ăn với xôi phồng mới nghe đã ngán – nhưng khi thưởng thức tại Chợ Mới này thì có vị khác lạ, làm khách cứ ăn mãi, quên thôi. Nhiều du khách đến đây chỉ yêu cầu luộc gà hoặc quay gà rồi ăn với xôi chiên phồng thay cho bữa ăn chính.
Chợ Mới có nhiều cơ sở làm xôi để phục vụ trước hết cho người dân địa phương. Trong mâm quả đi cưới ở đây hiện vẫn phải có mâm xôi truyền thống. Xôi phồng Kim Hương của bà Hồng Thu ở thị trấn Chợ Mới được nhiều người biết đến không chỉ chế biến ngon miệng mà còn biết cách xây dựng thương hiệu…
Các loại trái cây đặc sản miền Tây Nam Bộ
24. Thốt nốt
Dọc các tỉnh lộ vùng ven biên giới thuộc TP. Châu Đốc, huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, đa phần là ruộng lúa, điểm thêm nhiều hàng cây thốt nốt chạy dọc 2 bên đường.
Cây thốt nốt thoạt nhìn giống cây cọ, tán lá xòe như cánh quạt, thân cây lại giống thân dừa nhưng ít xù xì hơn. Trái của nó cũng mọc thành quày giống trái dừa, có màu tím sậm, đội thêm chiếc mũ màu xanh.
Tuy nhiên, trái thốt nốt không có nước bên trong như dừa, khi muốn ăn phải bổ ra lấy phần thịt mềm mịn bên trong.
Khác hẳn với dừa, muốn lấy nước thốt nốt phải dùng những ống tre nhỏ, dài, rỗng ruột thông vào cuống hoa để hút. Công việc này được thực hiện lúc hoàng hôn vừa buông xuống.

Với những vòi tre vừa được hun khói diệt khuẩn cột sát thân cây, những người thợ sẽ leo lên ngọn cây, đặt hết các ống tre để rạng sáng hôm sau thu gom về.
Nước thốt nốt có vị ngọt, thơm nhưng cơm thốt nốt lại có vị nhạt. Khi dùng chung với nhau, 2 mùi vị hòa quyện sẽ cho vị ngon rất riêng, đậm đà mà không quá gắt.
Nếu ở chợ thường bán nước thốt nốt trong ly thì dọc đường, chủ quán sẽ để thực khách tự tay chế biến và thưởng thức theo cách riêng nên họ phục vụ 1 chai nước thốt nốt, 1 dĩa cơm thốt nốt và 1 ly đá.
Ngoài nước thốt nốt tươi, người dân còn sử dụng trái thốt nốt để làm nhiều món ăn khác như: nấu chè, làm bánh bò.
25. Sầu riêng Cái Mơn
Không chắc chắn về nguồn gốc của sầu riêng Cái Mơn, nhưng người dân nơi đây truyền tai qua bao đời rằng nó có xuất xứ từ Campuchia. Do thầy nho Nguyễn Duy Lưu mang về Cái Mơn trồng từ cách đây cả trăm năm về trước. Bởi khi mới nếm thử vị của nó béo béo, ngọt và thơm như mùi sữa bò nên khi đem về ông lấy tên “sầu riêng sữa bò” đặt cho giống quả đặc biệt này.
Điểm đặc biệt là ban đầu sầu riêng mà thầy nho này trồng chỉ cho trái vào mùa hè và đúng trưa hay nửa đêm phải đợi tự rụng thì mới chín để thưởng thức. Cùng với sự hiếm có đó cũng như hương vị thơm lừng mà bà con khắp nơi đổ về xin thưởng thức và đem giống về trồng ở quê hương mình. Dần dà, giống quả này nổi tiếng khắp gần xa, trở thành một thương hiệu khó có thể sánh được tại Việt Nam.
Sầu riêng được trồng ở Cái Mơn hiện nay được chú trọng tăng năng suất nhưng cũng không quá to, chỉ chừng dưới 3 kg một quả. Nhưng bù lại vỏ cực mỏng, có khoảng 4-5 ngăn, khi chín tự tách ra từng mảnh khác nhau rất dễ lấy.

Những múi sầu riêng màu mỡ gà nhỏ nhỏ xinh xinh, phần cơm thịt có hương vị béo thơm đặc trưng tựa như vị của sữa bò. Mỗi khi đến mùa là hương thơm lan tỏa khắp vùng dẫn lối bạn đến với những khu vườn xum xuê, trĩu quả đầy cành tha hồ ngắm nhìn và ăn thử.
Để giữ lại được chất lượng nguyên vẹn của giống sầu riêng tại Cái Mơn, bắt buộc phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau từ chiết ghép đến lai tạo hay nhân giống từ cây gốc. Làm cách nào tốt nhất để sầu riêng vừa bảo đảm được độ thơm ngon vốn có, mà lại còn tăng thêm khả năng chống lại sâu bệnh tật. Một mặt bảo tồn, mặt khác lại phát triển và nhân rộng ra để tăng năng suất, đưa loại quả này giới thiệu khắp mọi nơi.
Ngoài độ mịn màng, mỗi khi cắn chẳng cần nhai mà như tan trong miệng. Sầu riêng Cái Mơn còn được yêu thích sử dụng làm nguyên liệu tạo nên nhiều món ăn khác nhau vô cùng hấp dẫn. Điển hình như: bánh crepe sầu riêng, kem sầu riêng, chè, xôi sầu riêng,…
Đối với nhiều người cảm thấy khó ngửi, nhưng một khi đã nghiện rồi thì phải tìm được đúng loại mà mình ưng í để mua về thưởng thức cho bằng được.
Xem thêm: LIST 14+ Quán Ăn Ngon Ở Hội An Nổi Tiếng Hàng Chục Năm
26. Thanh trà
Khi đặt chân đến Vĩnh Long, bạn sẽ được thưởng thức một loại quả đặc sản mang tên Thanh Trà. Loại quả này đáng yêu như chính cái tên của nó, hương vị dịu mát với mùi thơm thoảng dịu hấp dẫn bất kỳ ai ngay từ lần thưởng thức đầu tiên!
Quả thanh trà (hay còn gọi là sơn trà) là loại cây hoang dại mọc nhiều ở vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang), vùng rừng Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) và nhiều phải kể đến là ở xã Đông Thành, thị xã Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long).
Thoạt nhìn bên ngoài, cây thanh trà trông giống cây xoài nhưng nhìn kỹ sẽ có nhiều nét riêng. Qủa tương tự quả chanh, thon trò, vỏ màu xanh, chín có màu vàng cam bóng láng. Mùa thanh trà chín thường vào khoảng tháng giêng đến cuối tháng 3 âm lịch. Nếu muốn tận mắt ngắm nhìn và thưởng thức thanh trà tại vườn, du khách có thể đến đây vào hai thời điểm này.
Kích cỡ thanh trà tương đương với quả trứng gà, nằm nhỏ gọn trong lòng bàn tay. Phần thịt ở bên trong mọng nước, thế nhưng hạt to nên cùi không được nhiều. Khi quả thanh trà còn non thì chúng có lớp vỏ màu xanh mướt, đến độ chín thì chuyển sang màu vàng và dậy lên những mùi hương khiến ai cũng phải ngất ngây.

Cũng khi chín thì cơm mềm nhũn, vị chua ngọt đầy kích thích. Dù không quá nồng nàn, bừng trong cổ họng, người thưởng thức hãy cứ từ từ cảm nhận được cái vị tinh tế của nó nhé. Thịt quả mọng, thanh mát nên ăn bao nhiêu cũng không ngấy.
Từ quả thanh trà, người ta có thể chế biến theo nhiều cách, tạo ra nhiều món ăn phong phú. Cách thông thường được nhiều người ưa chuộng là dùng thanh trà chín chấm muối ớt. Nếu có cơ hội tham quan vườn thanh trà ở Đông Thành, du khách sẽ được tự tay hái và thử thanh trà tươi ngay tại vườn.
Ngoài cách giầm đá làm món nước giải khát thanh nhiệt, người ta còn lấy thanh trà ngâm đường giống ngâm nước mơ để dành uống dần cũng rất tuyệt. Thanh trà nhặt sạch cuống, rửa sạch ngâm với nước muối loãng, sau đó cho lượng đường vừa phải vào ngâm khoảng 10 đến 15 ngày là dùng được. Khi pha nước uống, múc vài quả thanh trà ngâm đường ra dầm với nước và đá uống rất ngon.
27. Ô môi
Trái ô môi có hai đường gân chạy dài từ đầu trái cho đến cuống trái. Vỏ trái màu đen nhánh thường hơi xù xì một chút. Trái ô môi thường dài 50 – 60cm nên muốn ăn thì phải chặt ra từng khúc để dễ dàng lấy hạt bên trong.
Hai bên thân trái ô môi có đường gân chạy dài từ đầu đến cuống nên người ta hay dùng dao bén róc 2 bên phần mép này để tách chúng ra. Róc xong thì ép hai đường gân đôi bên cho xệu xạo, rồi mới lấy múi ô môi đen nhánh, tròn tròn như đồng tiền, hột dính liền phái trên những miếng thịt ấy. Ô môi có vị ngòn ngọt, cay nồng của nó. Nó phải kết tinh trong suốt một năm trời, nên hương vị thơm quyện đặc trưng khó lẫn vào đâu được.

Là trái cây miệt vườn có sẵn, nên trái ô môi vốn là món quà vặt gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ miền quê. Tụi nhỏ mê nhất là ô môi chấm thêm muối ớt, ôi thôi chẳng cao lương mĩ vị nào thay thế được. Nhìn từng múi cơm ô môi xếp thành từng lớp đều nhau và ướm bên ngoài là lớp mật đen sánh sệt. Trông không “khả ái” chút nào nhưng ngộ đời là chúng lại khiến người ta mê mẩn.
Ngoài cơm thì hạt ô môi cũng là nguyên liệu cho nồi chè bình dân ở vùng quê miền Nam. Chúng có màu hồng nhạt, cỡ đầu ngón tay và thường đính kèm bên trong múi ô môi. Sau khi ngâm nước cho vỏ mềm rồi lột sạch thì cứ cho vào nấu cùng dừa. Món chè này rất thơm và có độ bùi béo nhai “đã” miệng.
28. Bình Bát
Bình bát là loại cây hoang dã mọc nhiều ở miền quê Tây Nam bộ. Cũng vì địa hình, người dân nơi đây tận dụng thân cây để làm củi và làm cây chắn sóng, vỏ cây bình bát còn làm võng rất bền chắc mà ít người biết đến.
Chỉ cần chặt những nhánh thẳng đem xuống sông ngâm nước cho lớp da bên ngoài nhũn, cạo bỏ lớp da mềm bên ngoài, lấy lớp da bên trong đem phơi khô, đánh tơi thành sợi đan thành những chiếc võng rất êm ái mà khó có loại dây nào sánh kịp. Còn trái bình bát chín là thứ quà vặt mà trẻ con rất ưa thích.
Người dân đôi khi nhầm lẫn 2 loại cây đều có tên gọi là bình bát. Một loại là loài dây leo thuộc họ bầu bí, thường gọi là dây bình bát hay dây bát. Loại này có công dụng chữa tiểu đường khá hiệu quả.

Dân gian thường dùng thân và quả của dây bình bát sắc lên lấy nước uống để chữa tiểu đường. Ngọn và lá non của dây bình bát dùng chế biến làm món canh rất ngon và có công dụng thanh nhiệt, giải độc.
Tuy nhiên, cây bình bát được đề cập ở đây là loài cây thân gỗ thuộc họ na, mọc chủ yếu ở rìa bờ kênh, mương, ao, hồ, có quả to bằng trái mãng cầu, trong cũng có nhiều hạt. Khi trái chín chuyển màu vàng và có mùi thơm rất dễ chịu.
Cũng giống mãng cầu, phần thịt của quả bình bát ăn được, có vị chua, dầm đường và bỏ thêm đá lại là thứ giải khát ngon, giàu vitamin.
Đối với những người con xa xứ, ăn bình bát cũng là cách để nhớ về một tuổi thơ hồn nhiên, nhiều kỷ niệm, để càng thấy yêu cái hương vị quê hương ngọt ngào. Tuy không phải là thức quả ngon nhất nhưng nó mang lại một vùng ký ức thật đẹp đã qua, để suy ngẫm và để thấy hồn quê thật đậm đà, sâu lắng.
29. Dừa sáp
Dừa sáp là đặc sản của quê hương Trà Vinh, nổi tiếng nhất là tại huyện Cầu Kè. Tương truyền cách nay khoảng 70 năm có một nhà sư người Khmer ở Trà Vinh sang Campuchia tu hành, khi về mang theo giống dừa này trồng tại huyện Cầu Kè và phát triển cho đến ngày nay. Xã Tân Hòa, huyện Cầu Kè, được mệnh danh là “Làng triệu phú dừa sáp” cũng nhờ vào bán được giá mà nhiều người trồng dừa sáp vùng này thoát nghèo.
Loại dừa này có nhiều điểm khác so với dừa thường ở chỗ dừa sáp đặc ruột hơn, cơm nhiều, mềm và dẻo hơn dừa thường. Giá cũng đắc hơn dừa thường. Giá trung bình của 1 trái dừa sáp từ 120.000 – 240.000đ tùy chất lượng trái lớn, nhỏ.
Đặc biệt mọi người nhớ đến loại dừa này bởi mùi thơm ăn vào cảm giác béo, ngon ngon. Sở dĩ dừa sáp quý hiếm là vì rất kén đất và khó trồng. Cùng là loại dừa sáp nhưng có trái cho sáp, có trái không. Hơn nữa, cùng một buồng (quầy dừa) nhưng không phải trái nào cũng có sáp mà tỷ lệ cho sáp chỉ chiếm khoảng 20-40%.

Các loại trái dừa nói chung thường trải qua vài giai đoạn. Khi dừa còn non, cơm mềm dẻo, nước ngọt. Khi già thì cơm dừa cứng lại, nước nhạt dần và có thể lên men. Riêng dừa sáp thì sau khi trải qua giai đoạn còn non với cơm dừa và nước dừa, sẽ tiếp tục phát triển dày dần phần cơm dừa lên lấp gần đầy khoảng trống của gáo dừa, chỉ để lại một không gian nhỏ chính giữa với chất lỏng sệt, có mùi thơm đặc trưng.
Cơm dừa dạng xốp, mềm và dẻo chứ không còn cứng như cơm dừa của các quả dừa khác. Nên khi bổ trái dừa sáp ra ta thấy rất lạ mắt.
Về cách ăn dừa sáp, hiện có nhiều kiểu cách khác nhau. Thông thường nhất là dùng muỗng nạo phần cơm dừa để ăn tươi tại chỗ. Cơm dừa trắng trong, deo dẻo, mềm như sáp, mùi vị thơm, lạ miệng, ngọt và béo nhưng ăn theo kiểu thông thường này thì chưa cảm nhận hết được vị ngon của dừa sáp mang lại. Mà nên ăn theo kiểu biến tấu sẽ rất thơm ngon và lạ miệng.
Nếu muốn hấp dẫn hơn, có thể cho tất cả hỗn hợp dừa – đường – sữa vào máy xay sinh tố sẽ có một món giải khát tuyệt vời trong mùa nóng.
30. Cà Na
Về miền Tây vào dịp tháng 7 âm lịch, khi mùa nước nổi đến, bông điên điển nở rộ khắp nơi trên cánh đồng thì cũng là lúc người dân nơi đây thu hoạch cà na – đây được xem là đặc sản của miền Tây sông nước, loại trái hoang dã và gần gũi này luôn để lại nỗi nhớ trong những người con xa xứ mỗi khi nước lũ tràn về đầy ắp trên những dòng kênh, con rạch chốn quê nhà.
Cây cà na là giống cây dại, mọc nhiều ở miền Tây nhất là vùng Tịnh Biên – An Giang. Khi lũ về, nhiều cây trái không thể sống được qua mùa nước nổi nhưng chỉ riêng cây cà na lại có thể sống được mà còn cho ra những trái căng tròn, rất sum xuê.
Bông cà na khi búp có màu xanh lợt, khi nở lại có màu trắng, nở to rất đẹp. Đến mùa nước nổi những chùm bông sẽ nở thành những chùm trái căng tròn. Trái cà na có hình bầu dục, to bằng lóng ngón tay, trái non có màu xanh đến lúc chín lại ngã sang màu vàng lợt có vị chua.

Trái cà na có thể ăn sống với muối ớt hay nước mắm đường, thường thì trái cà na ăn sống sẽ hơi chát ở đầu lưỡi và vị hơi chua hơn, chính vị chua chát của cà na khi đem biến tấu sẽ cho ra nhiều món ngon hấp dẫn như: cà na muối, cà na ngào đường…
Đặc biệt, với món quà của miền nước nổi, người ta còn chế biến thành rượu cà na và dưa muối cà na rất độc đáo. Rượu cà na có cách chế biến công phu hơn, cà na được hái về rửa sạch và phơi khô trong vòng hai ngày cho ráo sau đó rửa lại một lần nữa và ngâm chung với rượu trắng. Sau 6 tháng ủ rượu thì có thể sử dụng, rượu có vị ngọt, chua và chát rất dễ uống.
Ngoài ra, để làm cà na ngâm đúng điệu cũng đòi hỏi phải có kỹ thuật chế biến, đầu tiên phải đem cà na rửa thật sạch, dùng dao cắt phần đầu và đuôi trái cà na. Kế tiếp sẽ dùng dao để khứa 4 đường đều nhau nơi phần cơm từ trên xuống dưới.
Cà na sau khi mang khứa sẽ ngâm vào muối khoảng 2 tiếng, rồi xả lại với nước lạnh hai lần để giảm bớt độ chua và chát của cà na. Sau đó sẽ dùng tay vắt nhẹ cà na sau cho thật ráo trước khi mang trụng với nước sôi.
Công đoạn trụng với nước sôi sẽ được làm hai lần để cà na bớt chát và mềm hơn. Kế tiếp là xếp cà na vào một chiếc keo và đổ nước đường đã nấu vào keo. Ngâm cà na khoảng một ngày là có thể ăn, khi ăn dùng đũa lấy ra từng trái cà na để cà na không bị mốc và có thể ăn từ từ.
31. Trái Bần
Bần – ngoài cái tên nghe có vẻ nghèo khó ra còn có một tên gọi khác rất đài các: Thủy Liễu. Cây bần có nhiều công dụng không ngờ. Đất miền Tây quanh năm ngập phù sa. Thường có những con sóng lớn vào bờ gây nên sạt lở.
Để giữ đất, người ta trồng cây đước, cây bần trải dài hai bên bờ sông. Bần là loại cây đặc thù ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ở đâu có sông, có vàm, cù lao là ở đó cây bần sinh sôi nảy nở thành rừng.
Là loại cây sống trong môi trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Cây bần có chức năng giữ đất rất tốt, gỗ chủ yếu dùng làm chất đốt. Hoa bần màu trắng pha chút hồng phấn, trái bần có vị chua.
Bần mọc ven sông, trái to tròn, hơi dẹt như cái dĩa nên người Tây Nam Bộ gọi là bần dĩa. Ngoài bần dĩa, còn có loại mọc ở vườn thì trái nhỏ hơn, cỡ chỉ như trái ổi, gọi là bần ổi.
Hàng năm, bần trổ hoa vào khoảng tháng sáu âm lịch cho đến tháng chín. Trái bần xanh ăn có vị chua và hơi chát, lúc chín tới thì vừa chua, vừa thơm, ngọt, ăn một lần sẽ nhớ mãi, vì vị của nó rất đặc biệt không giống loại trái cây nào.

Trái bần chín thì được dùng để nấu canh chua. Khi chín, trái bần sẽ mềm và nhiều nước hơn, đem dầm ra và cho vào nồi nước sôi, thả thêm vài con cá bông lau đã được làm sạch, ngò thơm, rau diếp là có ngay một nồi canh bần chua hấp dẫn.
Hoặc có thể dùng bần chín kho chung với cá. Khi kho cá gần chín tới cho nguyên trái bần vào, đến lúc gần ăn mới dầm ra. Nếu ăn hai món này vào mùa hè sẽ có tác dụng giải nhiệt rất tốt. Trái bần chín cũng được dầm với nước mắm, thêm ớt, đường, bột ngọt… dùng chấm rau muống luộc hay đọt rau lang
Ngoài việc chế biến thành thực phẩm, cây bần cũng rất hữu ích trong đông y. Trái bần chua được sử dụng làm thuốc đắp vào chỗ viêm tấy vì bong gân. Ở Ấn Độ, người ta dùng dịch trái lên men làm thuốc ngăn chặn chứng xuất huyết.
Ta dùng lá giã ra, thêm tí muối, làm thuốc đắp tốt các vết thương bầm tím và vết thương nhẹ. Ở Malaysia, người ta giã lá lẫn với cơm làm thuốc đắp chữa bí tiểu tiện. Cây bần còn có những công dụng khác như rễ dùng làm nút chai, cành làm cần câu và làm củi đun.
Các loại bánh đặc sản Miền Tây
32. Bánh bò thốt nốt
Bánh bò thốt nốt là món bánh gắn bó với mọi thế hệ, tầng lớp người dân miền Tây. Không có ở đâu làm ra được loại bánh bò thốt nốt chính cống ngon như ở An Giang. Bánh bò thốt nốt được tạo ra từ sự hòa quyện của nhiều loại nguyên liệu khác nhau mà đặc biệt là nguyên liệu được lấy từ trái thốt nốt – loại cây được trồng nhiều ở An Giang.
Người ta dùng bột gạo, đường thốt nốt và cả nước thốt nốt để chế biến bánh bò thốt nốt. Việc chọn lựa nguyên liệu cũng có những yêu cầu của riêng nó. Đường thốt nốt được dùng để làm bánh phải là loại đường tán, ít lẫn tạp chất. Bột thốt nốt được gạn lấy từ trái thốt nốt chít đã được mài rất kỳ công.
Do vậy, cái bánh này có thể được xem như là hiện thân của những gì tinh túy, thơm ngon nhất của cây thốt nốt mà bạn có thể thưởng thức.
Ngoài ra, bột gạo cũng là nguyên liệu không thể thiếu và khá quan trọng. Nếu muốn có cái bánh bò thốt nốt ngon đúng chuẩn An Giang thì bột gạo phải được làm từ gạo nàng Nhen cũ. Đây cũng là đặc sản nổi tiếng của xứ An Giang. Thêm vào đó là rượu gạo được ủ thơm ngon từ trước để tạo sự lên men cho bánh bò.

Thời gian để làm ra món bánh bò thốt nốt này khá lâu, có thể lên đến tầm 12 tiếng cho một mẻ bánh vì phải ủ bột bánh để bột lên men.
Bánh bò được hấp chín, nước sôi sùng sục bên dưới đẩy hương thơm ngọt ngào của thốt nốt xông vào cánh mũi. Mẻ bánh ra lò vàng ươm, cắn vào xôm xốp, ngọt thanh và béo là đạt yêu cầu.
Bánh bò cũng có thể được nướng vàng ươm bằng sức nóng của than. Bánh bò thốt nốt nướng có hương vị đậm đà, vỏ bánh được nướng chín hơi cứng lại nhưng ăn rất ngon và thơm.
Bánh bò thốt nốt đúng chuẩn có màu nâu vàng nhạt, nhưng để ngon mắt, ngon miệng, người dân miền Tây còn thêm nhiều màu sắc và mùi vị, để tạo nên những chiếc bánh bò hấp dẫn hơn. Bánh bò thốt nốt có thể là món ăn sáng, ăn chơi của người dân miền Tây và đặc sản miền Tây làm quà cho du khách.
Ăn một miếng bánh bò, uống một tách trà nóng thanh đạm sẽ khiến có thể đem đến cảm giác khoang khoái, thoải mái cho thực khách.
33. Bánh da lợn
Nhắc đến ẩm thực Tây nam bộ thì người ta không thể không nhắc đến những đặc điểm dân dã, dễ làm và quen thuộc. Quen thuộc từ nguyên liệu đến cái tên của bánh. Bánh có hình dáng giống con tầm thì gọi là bánh tầm, bánh làm từ chuối gọi lá bánh chuối. Và bánh có từng lớp bột mỏng như da lợn nên được gọi là bánh da lợn?
Về tên gọi của món bánh này đã có không ít tranh luận, bởi không hiểu sao phương ngữ Tây Nam bộ gọi lợn là heo, có khá nhiều thành ngữ dành cho từ này như “ham ăn như heo”, có loại bánh mang tên khá vui tai là bánh lỗ tai heo. Vậy mà không hiểu tại sao Tây nam bộ lại tồn tại một loại bánh – bánh da lợn, mà không gọi là bánh da heo.

Điểm đặc trưng của chiếc bánh da lợn là phải có nhiều lớp trồng lên nhau, chia tầng rõ rệt, khiến chiếc bánh trông đẹp mắt vô cùng. Lớp bột óng, dẻo dai mà mỏng manh như quả có chút liên tưởng tới tấm da lợn. Nguyên liệu chế biến bánh gồm bột năng, bột nếp, đường, cốt dừa, màu sắc thêm vào là tùy màu lá: lá dứa cho màu xanh, lá cẩm cho màu tím, màu đỏ thì dùng gấc, vàng là thêm bột nghệ; cũng có thể mua sẵn ống vani tạo hương thơm.
Loại bánh này thường có màu chủ đạo là ngà vàng của đường, màu xanh của lá dứa. Với lá dứa không nên dùng quá nhiều vì bánh sẽ có mùi hăng, dùng với số lượng vừa đủ sẽ cho bánh có mùi thơm nhẹ.
Bánh da lợn, loại dân dã từ trẻ con đến người già, người ăn chay hay ăn mặn đều ưa thích. Có lẽ vì thế mà bánh da lợn luôn có mặt và gắn bó với đời sống văn hóa của người bình dân miền Tây sông nước.
34. Bánh tai yến
Bánh tai yến nhìn có vẻ cầu kỳ nhưng lại không quá khó để làm, mùi vị thì vô cùng thơm ngon, vành bánh thì giòn bên ngoài, mềm dẻo bên trong. Bánh ăn ngay lúc vừa làm xong sẽ ngon nhất.

Món bánh đặc sản Đồng Tháp này có hình dáng tròn và nhô lên trong như một chiếc mũ, nếu làm bánh đúng cách thì dù nguội phần viền vẫn giòn, bên trong thì mềm dẻo, đảm bảo ăn một lần là nhớ mãi.
35. Bánh tằm khoai mì
Bánh tằm khoai mì là món ăn tuổi thơ quen thuộc của người dân Nam Bộ. Đồng thời cũng là món ăn tuổi thơ gắn liền với nhiều thế hệ nơi đây. Bánh tằm khoai mì không chỉ ngon ở hương vị. Mà còn rất thu hút bởi màu sắc bắt mắt khiến bất cứ ai cũng khó lòng rời mắt khi bắt gặp chúng trên khắp các ngã đường ở TP.HCM.
Chỉ là một củ khoai mì nhỏ. Nhưng người dân miền Tây lại có thể nghĩ ra nhiều món ăn phong phú và hấp dẫn. Điều đặc biệt của món ngon từ khoai mì này là ở màu sắc đa dạng. Được sử dụng hoàn toàn từ những nguyên liệu thiên nhiên gồm: màu xanh từ lá dứa, màu tím của lá nếp cẩm và màu đỏ trái gấc.

Bánh sau khi hấp xong vừa thơm mùi khoai mì. Vừa thoang thoảng hương vị lá dứa, lá cẩm. Sau đó người ta sẽ cắt bánh thành từng sợi vừa vặn. Lăn qua vụn dừa nạo trông rất đẹp mắt và hấp dẫn.
Bánh hơi dai, có vị bùi thơm của khoai mì (củ sắn) và dừa nạo. Kết hợp cùng với vị béo ngậy của nước cốt dừa và thơm của mè rang. Tạo nên một món ăn khiến ai ăn thử một lần đều khó mà quên được.
Xem thêm: TOP 21+ Địa Điểm “Tránh Nóng” Du Lịch 1 Ngày Nên Đi Đâu TPHCM
Các món đặc sản Miền Tây nên mua về làm quà
36. Bánh Pía Sóc Trăng
Dọc theo trục đường chính từ Cần Thơ đi Cà Mau, ngang qua địa phận Sóc Trăng, du khách dễ dàng bắt gặp những dãy hàng quán, biển hiệu trang trí rực rỡ với hai màu chủ đạo đỏ, vàng nằm san sát nhau như một lời chào mời bạn đã đến với quê hương của món bánh Pía nổi danh.
Gọi là bánh pía vì theo âm đọc của người Triều Châu (người Tiều), “pía” nghĩa là bánh. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da vì có nhiều lớp da chồng lên nhau.
Để có một mẻ bánh Pía thơm ngon, hấp dẫn, người thợ phải qua nhiều công đoạn cầu kì và tỉ mẩn. Trước tiên, bột mì được trộn nhuyễn với đường cát trắng, cán mỏng tang, đảm bảo xếp chồng được nhiều lớp.

Tiếp theo là công đoạn nắn nhân, tùy từng loại bánh, bí quyết của từng nơi mà nhân bánh được chế biến theo lối riêng. Đậu xanh và khoai môn sau khi hấp chín được trộn đường, xay nhuyễn, chế thêm mỡ nước tạo nên mùi vị bùi bùi, beo béo.
Từ chiếc bánh Pía nguyên thủy, ngày nay bánh Pía có nhiều biến thể khác nhau, không chỉ có nhân phổ biến như: đậu xanh, khoai môn, sầu riêng, trứng muối, bánh còn có nhân hạt sen, xá xíu, củ cải, thơm (dứa), bơ…
Bánh Pía Sóc Trăng không quá ngọt và không quá béo, khiến người ăn có thể nếm lai rai không biết ngán. Lớp vỏ bánh mềm dẻo, mịn màng ôm lấy nhân bánh thơm ngọt phía trong. Điểm đặc biệt nhất của bánh pía Sóc Trăng là hoàn toàn không sử dụng hương liệu. Mùi thơm của bánh được tạo ra từ những múi sầu riêng được tuyển chọn từ khắp miệt vườn miền Tây.
37. Kẹo dừa Bến Tre
Kẹo dừa Bến Tre là một trong những thức quà đặc sản của miền tây. Không chỉ phổ biến trong nước, kẹo dừa theo các chuyến tàu xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới như Hàn Quốc, Mỹ, Thái Lan…
Người lần đầu ăn quyến luyến kẹo dừa bởi hương vị ngọt ngào, mùi thơm dễ chịu. Còn người miền tây, họ yêu chiếc kẹo giản dị này bởi nó chứa đựng một phần linh hồn quê hương mình.
Chỉ với 3 nguyên liệu đơn giản là mạch nha, đường và nước cốt dừa nhưng chẳng hiểu vì sao kẹo dừa Bến Tre lại trở thành thức quà đặc sản làm say đắm lòng người. Thức quà này độc đáo này để lại ấn tượng sâu đậm đến nỗi, bất kỳ ai đến Bến Tre cũng đều phải thử một lần và mua về làm quà cho bạn bè, người thân…
Nguyên liệu để làm kẹo dừa Bến Tre khá đơn giản, bao gồm nước cốt dừa, mạch nha và đường. Tuy nhiên, để làm ra được món đặc sản thơm ngon nức tiếng không hề đơn giản. Các bạn có thể tham khảo cách làm kẹo dừa Bến Tre dưới đây để biết quy trình này phức tạp như thế nào.

Kẹo dừa sẽ được đưa vào máy cắt để cắt theo kích thước định sẵn. Tiếp đó, người thợ sẽ gói kẹo bằng một lớp bánh tráng mỏng. Lớp bánh tráng này vừa giúp chống ẩm cho kẹo, mà không làm ảnh hưởng đến hương vị của kẹo.
Sau khi gói bằng lớp bánh tráng, thợ gói kẹo sẽ gói thêm một lớp giấy bên ngoài kẹo và cho vào hộp là hoàn thành quy trình làm kẹo dừa Bến Tre.
Những năm trở lại đây, kẹo dừa Bến Tre ngày càng được nhiều người yêu thích với số lượng bán ra vô cùng lớn. Do đó, thay vì cách làm kẹo dừa Bến Tre truyền thống thủ công, ngày càng có nhiều cơ sở sản xuất sử dụng máy móc hỗ trợ cho việc làm kẹo.
Từ công đoạn làm nước cốt dừa, phối trộn nguyên liệu, cho tới tạo hình kẹo, gói kẹo đều có sự tham gia của máy móc. Điều này giúp nâng cao năng suất, đồng thời cho chất lượng, hình thức kẹo tốt hơn.
Xem thêm: Bến Tre Có Gì Chơi? TOP 28+ Điểm Vui Chơi Hấp Dẫn Nhất
38. Rượu Mận Sáu Tia
Sở dĩ rượu mận có tên Sáu Tia là vì được ông Sáu Tia lên ý tưởng sau 1 lần thăm vườn và những quả mận chín rớt tạo nên mùi men giống rượu. Trái mậm An Phước có mùi đặc trưng khi chín nên được sử dụng, những loại mận khác nếu làm thì mùi vị và chất lượng sẽ không đạt yêu cầu và đây cũng là công thức để chế tạo nên Rượu Mận mà ông Phú Tia đã làm.
Rượu mận được sản xuất theo quy trình thủ công thông qua phương pháp nấu chín chứ không ngâm và đợi khi hỗn hợp nguyên liệu mận và mạch nha lên men, được chưng cất sau đó lấy rượu. Nồng độ của rượu mận sáu tia là 330 độ. Không sử dụng cồn hay một loại hóa chất nào khác nên có hương vị đậm đà tốt cho sức khỏe người uống cả nam lẫn nữ. Loại rượu mận này càng để lâu càng tốt.

Rượu mận nên ướp lạnh trước khi uống sẽ được ngọn hơn. Vì không sử dụng cồn nên không gây nhức đầu. Dù nồng độ cồn đạt 33 độ, nhưng chất andehit được kiểm nghiệm không tồn tại, cũng nhờ đặc điểm làm từ tự nhiên của rượu mận mà rượu để càng lâu càng ngon, không bị hư hỏn nhưng tốt nhất nên bảo quản rượu mận ở nơi khô thoáng mát và tránh ánh nắng trưc tiếp.
Chén rượu trắng đục thấm đượm vị ngọt của mận, hương thơm đặc trưng cùng chất men cay rất dể dàng mê hoặc người thưởng thức. Hơn nữa mẫu mã của rượu mận Sáu Tia lại vô cùng đẹp mắt, vô cùng thích hợp làm quà biếu, tặng trong các dịp, lễ, tết,…
39. Mắm Châu Đốc An Giang
Mắm Châu Đốc có bán khắp nơi nhưng tập trung nhiều nhất là ở chợ Châu Đốc. Bởi thế bất cứ du khách nào khi đến đây, việc nhất định phải làm đó là ghé chợ, trước ngắm sau mua vài loại mắm về làm quà.
Nếu là lần đầu ghé đến ngôi chợ địa phương này, bạn chắc chắn sẽ choáng ngợp bởi mắm, khô cá có ở khắp mọi nơi. Những con mắm lóc, mắm sặt, mắm linh, mắm ba khía chất thành “núi”, những hàng cá khô đủ loại cực kỳ hấp dẫn.
Trong các loại mắm được bày bán ở chợ Châu Đốc (An Giang), mắm thái được nhiều người ưa chuộng. Nguyên liệu chính để làm loại mắm này thường là cá lóc, đem lọc bỏ xương và da, sau đó xé nhỏ trộn với đu đủ xắt sợi và thịt ba rọi ram, thêm thính gạo, đường và ớt. Đường dùng làm mắm là đường thốt nốt – đặc sản của xứ Bảy Núi (An Giang).

Mắm thái ăn kèm với rau sống, chuối chát, thịt ba rọi luộc là đúng điệu. Người dân làm nghề ủ mắm ở Châu Đốc cho biết bất cứ loài cá nào cũng có thể làm mắm được nhưng ngon hơn cả là cá lóc, cá trèn, cá sặc, cá trốt, cá linh.
Không chỉ nổi tiếng là “vương quốc mắm”, chợ Châu Đốc còn được nhiều người biết đến với các loại khô cá, đặc sản có giá trị. Trong đó, phải kể các loại khô như: khô cá tra phồng, khô cá lóc, khô nhái, khô rắn, khô cá sặc…
Bên cạnh chợ mắm, Châu Đốc còn một điểm tham quan đặc biệt mà hầu như tất cả du khách đều muốn ghé qua đó là miếu Bà Chúa Xứ. Nằm trong quần thể di tích nổi tiếng ở An Giang, cạnh đó là chùa cổ Tây An và lăng Thoại Ngọc Hầu, miếu Bà lúc nào cũng tấp nập khách thập phương đến dâng hương.
40. Nem Lai Vung Đồng Tháp
Nem chua thì vùng nào cũng có, nhưng nem chua Lai Vung lại sở hữu một hương vị vô cùng đặc biệt. Bất cứ ai đã được một lần thưởng thức món đặc sản này đều ấn tượng mãi không thôi. Để tạo được hương vị thơm ngon khó quên cho nem, mọi công đoạn trong quy trình làm nem, từ chọn nguyên liệu, sơ chế, trộn nguyên liệu cho tới gói nem đều được tiến hành hết sức chỉn chu.
Đối với phần nguyên liệu làm nem Lai Vung Đồng Tháp, người làm phải chọn lựa kỹ càng cẩn thận. Từ thịt heo, bì heo, cho tới các loại gia vị tẩm ướp nem, rồi đến các loại lá để gói nem… Tất cả đều đòi hỏi sự chỉn chu trong từng bước lựa chọn.
Bên cạnh thịt lợn thì nem chua Lai Vung còn có cả bì heo. Bì heo cũng phải thật tươi ngon, lông heo trên bì được cạo sạch sẽ, sờ mịn màng. Sau đó, bì heo sẽ được rửa sạch, để ráo.

Tiếp đến là các gia vị tẩm ướp nem. Nhắc đến nem chua Lai Vung, không ai là không biết đến câu ca: “Lai Vung là xứ lạ lùng – Nem chua mà ngọt, thơm nồng mà say”. Gia vị chính là thành phần không thể thiếu để tạo nên cái vị “chua mà ngọt”, “thơm nồng mà say” đặc trưng này của nem Lai Vung Đồng Tháp. Các gia vị làm nem bao gồm hạt tiêu, tỏi, đường và ớt xanh.
Một nguyên liệu nữa cũng rất quan trọng, làm nên vị ngon đặc trưng của nem chua Lai Vung đó là lá chùm ruột hoặc lá vông non. Hai loại lá này có vị chua thanh đặc trưng, khi gói cùng với nem chua sẽ giúp tăng độ chua tự nhiên cho nem.
Khi thưởng thức món nem chua Lai Vung đặc sản của Đồng Tháp, bạn sẽ nhẹ nhàng bóc bỏ lớp lá chuối gói bên ngoài miếng nem. Lớp lá chuối vừa được bóc ra, bạn sẽ thấy ngay được phần nem đỏ hồng vô cùng bắt mắt. Nổi bật trên đó là màu trắng của tỏi thái lát, màu xanh của ớt tươi.
Cắn một miếng nem Lai Vung, bạn sẽ cảm nhận được ngay vị chua dịu nhẹ, quyện cùng với vị ngòn ngọt, cùng với vị cay nồng nàn say đắm lòng người của món đặc sản này. So với các loại nem chua khác, nem chua Lai Vung sở hữu một hương vị rất riêng, một hương vị mà một khi đã nếm thử, chắc chắn bạn sẽ muốn nếm lại nhiều lần hơn nữa.
41. Bánh Tráng Sữa
Tiền Giang không chỉ nổi tiếng với những vườn dừa thẳng tắp, những khu du lịch với hệ thống sinh thái ven sông vô cùng phong phú mà Tiền Giang còn có ẩm thực rất phong phú, hấp dẫn. Mảnh đất này chính là nơi xuất xứ của món bánh tráng sữa độc đáo, hương vị béo béo của dừa. thơm thơm của sầu riêng hòa quyện nên một món ăn tuyệt vời, một lần nếm thử cả đời không quên.
Bánh tráng sữa được làm từ những nguyên liệu vô cùng giản dị ở vùng sông nước miền tây như dừa, bột gạo pha bột sắn, gừng, nước, đường, mè trắng, đậu xanh, tuy nhiên, để cho bánh dậy mùi, có mùi thơm hơn thì người ta thêm vào các nhiên liệu thiên nhiên là sầu riêng, lá dứa.

Các nguyên liệu được hòa quyện vào nhau dưới bàn tay khéo léo của những người thợ làm bánh tạo ra những chiếc bánh tráng sữa vô cùng thơm ngon để đưa đến tay các thực khách, dùng để làm quà tặng quà biếu đều được.
Báng tráng sữa dùng để ăn liền chứ không cần phải chế biến thêm, chính vì cách ăn như vậy cho nên không làm giảm độ ngon của bánh, người ăn có thể thưởng thức đủ độ béo ngậy của dừa, mùi thơm của sầu riêng và độ ngọt vừa phải.
42. Quả Mây Gai
Dọc theo các tuyến đường về thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang có rất nhiều sạp hàng bày bán quả mây gai. Được biết, đây là loại quả có xuất xứ từ Thái Lan, được nhập về An Giang qua đường biên giới Campuchia.
Cây mây gai là loài cây mọc hoang thành bụi trong rừng, gai nhiều, thậm chí ở lá cũng có gai. Mây gai thường mọc hoang dưới những tán rừng rậm, rừng thưa duyên hải…
Quả mây gai có hình bầu dục, hai đầu nhọn, vỏ có màu nâu đỏ, nhiều gai xù xì. Một chùm mây gai có khoảng 14 – 15 trái, lớn nhỏ xen kẽ nhau. Qủa mây gai chín, bóc đi lớp vỏ, phía bên trong dần lộ ra lớp thịt màu vàng kem, cắn vào cảm giác chua chua, ngọt ngọt, rất ngon miệng.

Nếu ăn đúng quả mây gai còn xanh sẽ có vị ngọt rất lạ, đúng chất với mùi vị trái cây rừng. Qủa mây gai có thể ăn không hoặc chấm cùng muối ớt để vị thêm đậm đà.
Thoạt nhìn thì tưởng như rất khó khăn để có thể bóc được quả mây gai nhưng nhìn kỹ thì rất dễ dàng. Qủa mây gai có vỏ rất mỏng, chỉ cần dùng tay hoặc dao ngắt phần đỉnh nhọn phía đầu quả là có thể bóc ra. Khi tách vỏ mây gai để lộ phần thịt chia nhánh giống nhánh tỏi, lớp thịt chắc nịch, nhìn rất bắt mắt.
Thịt quả mây gai ăn khá bổ dưỡng vì chứa nhiều nguyên tố vi lượng, giúp thanh nhiệt, giải độc và đặc biệt là bổ sung nước rất tốt. Mây gai chỉ có thể bảo quản được vài ngày, vì vậy du khách nên ăn trong ngày.
Nếu muốn mua về làm quà thì du khách nên chọn những quả chín vừa để khi về mây gai sẽ chín tới, không bị xây xát, bầm dập.
43. Bánh Tét lá cẩm Cần Thơ
Bánh Tét được xem như một biến thể của Bánh Chưng, loại bánh có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại qua truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Do tác động của điều kiện sinh sống và nguyên liệu đặc trưng vùng miền, hình vuông của bánh Chưng đã biến thành hình trụ của bánh Tét, còn cơ bản các nguyên liệu và cách chế biến gần giống nhau.
Để có một mẻ bánh tét lá cẩm ngon, quá trình chế biến rất công phu. Trước tiên phải lựa nếp thật tốt, không lẫn gạo tẻ mới làm cho đòn bánh dẻo, ngâm qua 6 tiếng sau đó để ráo, trộn với nước lá cẩm để lên màu tím đẹp mắt. Lá cẩm phải còn tươi, lá úa sẽ làm cho nước lá cẩm xuống màu.
Sau khi ngâm nếp tương đối mềm thì sẽ xào chung với nước cốt dừa, nêm muối, đường trong thời gian khoảng một tiếng để màu lá cẩm và vị bó của nước dừa ngấm vào từng hạt nếp. Nhân bánh tét lá cẩm khá đa dạng, có thể bên trong là đậu xanh, thịt, trứng muối, có thể thêm tôm khô hoặc chỉ đơn giản là nhân chuối.

Bánh được gói trong lá chuối tươi, không quá non cũng không quá già, được lau sạch và thoa một lớp dầu trên bề mặt để tránh nếp dính vào lá khi nấu. Công đoạn gói chính là lúc cần đến đôi bàn tay khéo léo, bánh đẹp phải đảm bảo tròn đều, sao cho nhân bánh là thịt, hay trứng muối, lạp sườn, thậm chí là nhân chuối với bánh tét chay phải được nằm đúng ở vị trí chính giữa của bánh.
Hiện ở Cần Thơ còn khá nhiều lò bánh tét lá cẩm hoạt động nổi tiếng nhất là bánh tét lá cẩm của nghệ nhân Huỳnh Thị Trọng, bánh tét Chín Cẩm, bánh tét Tư Đẹp… đây là những thương hiệu bánh lâu đời tại Cần Thơ.
Khi du lịch Cần Thơ đừng quên thưởng thức món bánh tét lá cẩm và mua về làm qua cho người thân tại các chợ như: chợ Xuân Khánh, An Thới, Mít Nà… ,siêu thị hay đến bến Ninh Kiều, bạn dễ dàng tìm được các sạp bánh đặt rải rác dọc theo bờ sông.
44. Lạp Xưởng Cần Đước
Lạp xưởng tươi Cần Đước là một trong những món đặc sản Long An được rất nhiều người ưa chuộng hiện nay. Hầu như bất kỳ ai ghé đến Long An, dù là đi công tác hay du lịch thì khi về nhà cũng sẽ phải mua 2 – 3kg lạp xưởng tươi Cần Đước làm quà.
Những xâu lạp xưởng tươi mập mạp màu đỏ hồng bắt mắt thoang thoảng hương thơm với vị chua ngọt đặc trưng để lại ấn tượng khó phai cho bất cứ ai đã từng thưởng thức.
Món đặc sản lạp xưởng tươi của Long An sở hữu vị chua ngọt đặc trưng chứ không chỉ đơn thuần là vị ngòn ngọt, thơm thơm của các món lạp xưởng tươi thông thường.

Vị chua này khá dịu, là vị chua của thịt lên men. Đây chính là yếu tố giúp cho món lạp xưởng Cần Đước trở nên thu hút hơn đối với khẩu vị của đại đa số khách hàng.
Không chỉ cuốn hút ở vị thơm ngon đặc trưng khó xường, lạp xưởng Cần Đước còn có “ngoại hình” rất bắt mắt. Vì được làm thủ công nên lạp xưởng sẽ có hình dáng “bầu bĩnh”, dài ngắn khác nhau. Màu sắc của lạp xưởng cũng không quá đỏ tươi mà sẽ có màu đỏ hơi thẫm tự nhiên bắt mắt.
Đến với Long An, tìm mua đặc sản về làm quà cho bạn bè, người thân, đồng nghiệp… không thể không mua lạp xưởng tươi Cần Đước. Từng chùm lạp xưởng mập tròn, treo lủng lẳng trước gió, ánh lên màu hồng bắt mắt dưới ánh nắng vàng rực,… chắc chắn sẽ là món quà mang đến sự hài lòng cho bất kỳ ai nhận được.
45. Nhãn da bò Bạc Liêu
Từ những buổi đầu di cư lập nghiệp, nhãn da bò (có nguồn gốc từ Trung Quốc) đã được người Hoa đem qua Việt Nam nhân giống và có mặt ở Bạc Liêu cho đến nay. Cây nhãn da bò càng nhiều năm tuổi thì cho trái càng nhiều, dày cơm và hương vị thơm ngọt hơn.

Mùa nhãn da bò thường rơi vào khoảng mùa mưa, tầm độ từ tháng 5 đến tháng 10. Khác với những giống nhãn truyền thống khác, nhãn da bò cho vị ngọt thanh không quá gắt, vỏ mỏng dày cơm. Được biết, nhãn da bò là một trái cây đặc sản Bạc Liêu mua về làm quà phù hợp cho mọi đối tượng khi đi du lịch ở Bạc Liêu.
Tại Bạc Liêu, xã Hiệp Thành là địa phương có diện tích trồng nhãn da bò nhiều nhất. Đặc biệt, ở vùng này có nhiều vườn nhãn cổ có tuổi đời hàng trăm năm, là điểm tham quan yêu thích của khách du lịch khi đến với Bạc Liêu.
Xem thêm: Chơi Gì Ở Bạc Liêu? 14+ Địa Điểm Du Lịch Bạc Liêu
46. Ba Khía
Ba khía sống ở môi trường nước lợ, nơi các cửa sông, cửa rạch đổ ra biển, có nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu… Ba khía thuộc loài giáp xác, hình dáng và kích cỡ giống như con cua đồng, sống ở vùng nước mặn, lợ, ven sông rạch, nhất là dưới chân rừng ngập mặn.
Tên gọi của nó bắt nguồn từ ba dấu gạch ở trên lưng. Cách bắt và chế biến ba khía không cầu kỳ, nhưng đây là món ăn mang đậm nét văn hóa ẩm thực miền Tây.
Ba khía có thể nấu thành rất nhiều món ăn. Người miền Tây khéo léo nên món ăn nào cũng chan chứa tình cảm, mang đậm hương vị không thể lẫn của vùng sông nước.

Người ta chọn những con có cặp càng to đem rang, rim mặn hoặc chiên bột ăn với cơm. Cầu kỳ hơn, người ta còn biến ba khía thành món nhậu hấp dẫn như rang me, hấp bia, trộn gỏi…
Một món khá phổ biến đó là ba khía nấu canh, vừa thơm ngon vừa giải nhiệt. Trước tiên, rửa ba khía thật sạch đất bùn, sau đó bóc yếm và bẻ đôi làm hai nửa, tách cả càng, gọng.
Ba khía muối chính là món ăn ăn mà hầu như không một người dân nào ở miền sông nước nào không biết đến, đặc biệt đây còn được xem là món khoái khẩu. Mắm ba khía sau khi chế biến ăn với cơm, bún,… đều rất thơm ngon.
Ngoài ra, ba khía còn được chế biến bằng cách luộc sả ăn cùng với nước chấm. Nước chấm được chế biến rất đơn giản nhưng không kém phần đặc biệt; gồm sả băm nhuyễn, trộn chung với cơm mẻ, cho chút ớt vào tạo vị cay rồi bỏ thêm chút gia vị cho vừa ăn.
Với cách ăn này, thịt của ba khía rất ngọt, thơm do hòa với hơi cay của ớt, sả và chút chua, nồng của cơm mẻ. Ba khía luộc ăn cùng với nước chấm sẽ là một món ăn không thể quên đối với du khách.
47. Trái cây miệt vườn
Miền Tây là thủ phủ của các loại trái cây nhiệt đới như chôm chôm, nhãn, sầu riêng, xoài,… trái cây hái tại vườn bao giờ cũng tươi ngọt hơn, vì vậy đừng quên mua một ít trái cây về làm quà nếu như bạn đến miền Tây nhé!

Thú vui của trái cây miệt vườn đó là, không gian thoáng đãng, thơm mùi hoa quả tại các nhà vườn. Sau đó, bạn có thể trực tiếp mua hoa quả tại đây mang về làm quà cho người thân. Trái cây được hái trực tiếp từ trên cây xuống thì bạn có thể yên tâm về độ tươi ngon rồi nha. Một số miệt vườn Tây Nam Bộ như: vườn trái cây Vĩnh Kim, miệt vườn Cái Bè ở Tiền Giang, miệt vườn Cái Mơn ở Bến Tre,…
Chắc chắn rằng khi đến với Miền Tây, không ít du khách đã rất đau đầu khi lựa chọn đặc sản Miền Tây làm quà bởi nơi đây có rất nhiều món ăn ngon và hấp dẫn. 3blackdogs sẽ gợi ý giúp bạn những món ăn đặc sản Miền Tây nên mua để biếu người thân, bạn bè làm quà hay chỉ đơn giản là mua về thưởng thức cùng gia đình nhé.