Nhà Văn Nguyên Hồng với tác phẩm “Bỉ Vỏ” và hàng loạt tác phẩm để đời đã phần nào góp công sức mình vào thơ văn Việt Nam ngày một hoàn mỹ hơn. Tuy trải qua bao đau đớn, tủi nhục và long đong nhưng ông vẫn một lòng một dạ theo đuổi sự nghiệp viết văn.
Tiểu sử nhà văn Nguyên Hồng
Nhà văn hiện thực phê phán Nguyên Hồng sinh ngày 5-11-1918 tại Tỉnh Nam Định, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Bắc Giang, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Thần Nông, cầm tinh con (giáp) ngựa (Mậu Ngọ 1918). Nguyên Hồng xếp hạng nổi tiếng thứ 46544 trên thế giới và thứ 5 trong danh sách Nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng.
Nhà văn Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở Vụ Bản, Nam Định. Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957.
Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm.
Năm 1936, Nguyên Hồng bắt đầu viết văn với truyện ngắn “Linh Hồn” đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết “Bỉ Vỏ”. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ” là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những “con người nhỏ bé dưới đáy” như Tám Bính, Năm Sài Gòn.
Từ 1936 – 1939, Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng.
Tháng 9/1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng…
Ông qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang). Tên của ông được đặt cho một trường học ở huyện Tân Yên, Bắc Giang.
Một cuộc đời bất hạnh – một nghị lực phi thường
Nguyên Hồng (1918-1982) sinh ra trong một gia đình công giáo ở Phố Hàng Cau, TP Nam Định, mồ côi cha từ năm lên 12 tuổi, gia đình sớm sa sút.
Mẹ buộc phải đi làm ăn xa, nhà văn lớn lên trong sự hắt hủi và thiếu thốn tình thương của mẹ. 16 tuổi, Nguyên Hồng cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống ở các xóm chợ nghèo… gắn bó với những con người nghèo khổ nhất của thành phố này.
Có lẽ chính vì vậy mà tác phẩm của Nguyên Hồng thường viết về những người ở đáy cùng xã hội. Ông thương những người nghèo khổ và có hoàn cảnh éo le.
‘Tính cách bố tôi cũng vậy. Ông thương người nghèo khó, bản thân ông sống không bao giờ đố kị, ghen ghét ai. Ngày trước, ở xóm tôi có người phụ nữ khoảng 80 tuổi không chồng con, không đi lại được, sống rất nghèo khổ.
Cứ đến bữa ăn, bố tôi xới bát cơm, lấy ít thức ăn rồi bảo chúng tôi mang sang cho bà. Ông đi công tác về có quà, cũng bảo các con đưa sang biếu người ta miếng bánh. Lúc cuối đời, không còn tỉnh táo, bà ấy vẫn gọi tên bố tôi’, chị Nhã Nam kể.
Năm 24 tuổi, nhà văn thành hôn với bà Vũ Thị Mùi (SN 1919 – 1988).
‘Họ nên duyên từ một lần, bố thuê người ta đan cho một chiếc áo len. Tuy nhiên, người này bận nên giới thiệu cho mẹ tôi đan. Mẹ tôi từ trước đã rất ngưỡng mộ tác giả của tiểu thuyết Bỉ vỏ nên nhận lời ngay’.
Trong hồi ký của mình ông từng viết: ‘Tiền tác giả của cuốn ‘Ngoài kia’ được hơn trăm đồng. Cộng với tiền tác giả của cuốn ‘Cuộc sống’ khoảng hơn trăm đồng nữa, tôi đã cưới nhà tôi’.
Khác với các văn nghệ sĩ dành phần nhiều thời gian sáng tác, việc cơm áo gạo tiền để vợ lo toan thì Nguyên Hồng lại đỡ đần vợ rất nhiều trong cuộc sống.
‘Mẹ tôi sức khỏe yếu và bận chăm nom 7 người con, công việc nhà như đi chợ, giặt quần áo, cơm nước… bố tôi thường không nề hà mà hay đỡ đần mẹ. Tôi nhớ có những ngày mẹ mệt, bố tôi rời trang bản thảo, liền bê ngay chậu quần áo lớn xuống suối giặt.
Biết mẹ thích uống chè, nhà được ai biếu lạng nào, ông đều để phần và nhường cho bà dùng’, anh Nguyễn Vũ Sơn (giáo viên toán về hưu), con trai của nhà văn Nguyên Hồng, nhớ lại.
Bà Mùi là người yêu văn thơ, biết tiếng Pháp. Cho tới khi tuổi đã cao, hai ông bà vẫn hay đọc thơ cho nhau nghe.
Hành trình theo đuổi nghề miệt mài
Từ nhỏ, những quyển sách đã có sự thu hút đặc biệt đối với Nguyên Hồng, ông thường dành dụm tiền để đọc và dường như đọc hết những cuốn mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định.
Nguyên Hồng thích tìm hiểu về lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều nhất.
Mở đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn Linh Hồn đăng trên Tiểu thuyết thứ 7 đã dần tạo nên tên tuổi của nhà văn Nguyên Hồng.
Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết Bỉ Vỏ. Đây không chỉ là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những con người nhỏ bé dưới đáy như Tám Bính, Năm Sài Gòn mà còn là một câu chuyện gây tiếng vang lớn thật sự đưa Nguyên Hồng đi vào lòng độc giả nói riêng và toàn bộ cộng đồng tri thức nói chung.
Bỉ vỏ dần được xuất hiện trên các mặt báo như một hiện tượng mới lúc bấy giờ và nhanh chóng nhận được giải thưởng từ Tự lực văn đoàn (1937). Cũng từ tác phẩm này, tác giả đã có những lời nhận xét và khẳng định đầu tiên từ nhà văn Thạch Lam:
“Tác giả tả một cách rõ ràng tuy nhanh chóng và có khi hơi vội vã. Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía rung động, có nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc. Những cảnh tả chân thực có vẻ sống sượng một cách vừa phải…”
Là tiểu thuyết đầu tay, Bỉ vỏ ít nhiều vẫn tồn tại một cái nhìn lệch lạc và vấp phải những lỗi vụng về nhưng đó là lỗi sai của những người mới chập chững bước vào nghiệp viết, dần dần sẽ biến mất theo thời gian bằng những kinh nghiệm sau nhiều lần từng trải.
Sau tác phẩm này, uy tín và vị trí cũng như danh tiếng của Nguyên Hồng dần được xác lập trong văn đàn Việt Nam và ông đã thật sự trở thành nhà văn.
Trong sự nghiệp theo đuổi viết lách, Nguyên Hồng là một trong số ít những nhà văn ngay từ khi cầm bút đã xác định được con đường của mình là suốt đời đi theo những con người cùng khổ.
Chủ nghĩa nhân đạo thống thiết được thể hiện rõ nét trong cả thơ và văn của ông, với một cảm hứng nhiệt tình, sôi nổi và lao động không biết mệt mỏi khiến Nguyễn Tuân phải nói rằng:
“Nguyên Hồng là kẻ đam mê viết – Một kẻ bị ám ảnh bởi công việc ngoài viết ra không biết gì đến ăn mặc, ăn mặc xuềnh xoàng tới mức người ta tưởng là lập dị.”
Sau này, nhà văn tiếp tục viết về cuộc đời của mình qua nhiều trang hồi ký khác như Bước đường viết văn của tôi, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Một tuổi thơ văn. Cách đây không lâu, những trang nhật ký của nhà văn cũng lần đầu tiên được gia đình công bố.
Những trang nhật ký của ông được viết từ 1941 – 1982 không chỉ cho bạn đọc được biết về cuộc sống của nhà văn mà còn như được thấy cả một giai đoạn lịch sử, đặc biệt là về đời sống văn nghệ của đất nước trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ XX. Nhật ký Nguyên Hồng ngay khi vừa ra mắt đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả.
Xem thêm: Các Cuốn Sách Hay Nên Đọc Một Lần Trong Đời
Chiếc nhẫn cưới “Lận Đận” của nhà văn Nguyên Hồng
Nguyên Hồng là người rất coi trọng bạn bè. Khi ông cùng gia đình chuyển từ Hà Nội về Bắc Giang sinh sống năm 1959, các bạn văn nghệ sĩ hay lên chơi. ‘Các nhà văn Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng… thường viết thư, đánh điện hẹn nhau.
Gần ngày hẹn, bố tôi giục mẹ đi chợ, chuẩn bị đồ ăn để ông và các bạn ngồi đàm đạo, nói chuyện văn thơ. Ngày ông Nguyễn Huy Tưởng bị bạo bệnh, ông đạp xe từ Bắc Giang xuống Hà Nội thăm bạn nằm viện. Khi ông mất bố tôi xót thương vô hạn, ông làm bài thơ “Đường xanh” đề: ‘Kính tặng hương hồn Nguyễn Huy Tưởng’.
Trong hồi ký của mình, Nguyên Hồng cũng nhắc đến nhiều kỷ niệm với nhà văn Kim Lân, người chia ngọt sẻ bùi với ông. Lần đó, hai người đạp xe từ Hưng Yên lên Hà Nội mang theo cơm nắm và bản thảo đến gõ cửa các nhà in để xuất bản tác phẩm ‘Đôi chim thành’ của Kim Lân.
Sách không được in, Nguyên Hồng vào một tiệm vàng. Khi thấy Kim Lân hỏi, Nguyên Hồng nói: ‘Tôi còn cái mặt nhẫn. Cái nhẫn cưới của chúng tôi vàng thì nạy bán từ ngày bỏ vốn làm ban kịch Hà Nội cùng anh và Như Phong. Còn cái mặt, vợ tôi định đem bán từ ngày thằng Hà được ba tháng…’.
Cái mặt nhẫn chỉ bán được 7 đồng (trong khi gạo ngày đó 6 đồng/đấu)…
Với nhà văn Nguyễn Tuân, dù tính cách rất trái ngược như Nguyễn Tuân đã nói với Nguyên Hồng từ khi hai người mới quen nhau thời trẻ: ‘Tôi là một người thích phá đình, phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông…’ nhưng họ lại rất yêu quí và nể trọng nhau.
Nguyên Hồng về Hà Nội bao giờ cũng phải gặp Nguyễn Tuân, đôi khi chỉ là để uống với nhau cốc bia, nói vài câu chuyện, tin tức…
Ngày Nguyên Hồng mất, nhà văn Nguyễn Tuân rất đau lòng. Nguyễn Tuân lên Bắc Giang khi đám tang đã xong được một ngày. Trước nấm mồ người bạn, ông đã đau xót tưới lên đó những chén rượu quê…
Người cha rất thích đi họp phụ huynh
Nghiêm khắc, kiệm lời nhưng tràn đầy tình yêu là cách nhà văn dùng để dạy 7 người con (3 con trai và 4 con gái).
‘Một trong những đam mê từ nhỏ của bố tôi là đọc sách nên ông muốn các con của mình cũng như vậy. Gia đình luôn túng thiếu nhưng trong nhà vẫn có 2 tủ sách, sách kinh điển được dịch bằng tiếng Việt dành cho các con, sách tiếng Pháp cho ông.
Mỗi lần xuống Hà Nội giao bản thảo hay lấy tiền nhuận sách, ông đều mua sách về cho các con đọc’, chị Nhã Nam nói.
Các con ông vẫn nhớ như in hình ảnh người cha khắc khổ đạp xe từ Cầu Đen (Bắc Giang) xuống Hà Nội, phía sau là chiếc cặp to đựng bản thảo và ít đồ ăn (cơm, lạc rang) nhưng khi về trong hành lý của ông ngoài các tài liệu và các nhu yếu phẩm của gia đình bao giờ cũng có vài cuốn sách cho các con.
Ông yêu cầu các con cầm quyển sách để đọc không được gập lại bởi theo ông ‘làm thế như bẻ quặt cánh của con chim bồ câu’. Đọc xong ông buộc con xếp ngay ngắn, đúng chiều trên giá sách để lúc cần có thể tìm thấy ngay.
Dịch giả Nguyễn Thị Thanh Thư, con gái nhà văn Nguyên Hồng, cũng từng kể: ‘Thường thì ông dịu dàng. Nhưng nếu như đúng lúc ông cần một cuốn sách nào đó mà chúng tôi đã đánh mất hoặc đang cho ai mượn thì ông gầm lên như một con hổ.
Có một lần như vậy, tôi lỉnh ra sau bếp đứng một mình và thầm nghĩ: ‘Thế mà hôm nọ viết thư về bảo nhớ và thương các con lắm!’.
Ông bảo ban các con làm việc nhà, giao tiền cho con đi chợ, ông luôn dặn ‘con nhớ mặc cả nhé’ để các con không bị mua đắt!
‘Tôi còn nhớ hồi nhỏ có chiếc áo mới, thích quá nên đi học về tôi vẫn mặc, không chịu thay ra. Ông thấy vậy liền nhắc con. Ông nói ở nhà nên mặc quần áo cũ, quần áo mới nên để dành. Những lời dạy đó ảnh hưởng lớn đến tính cách chúng tôi sau này, các con đều giản dị, tiết kiệm’, chị Nhã Nam nhớ lại.
Ông nghiêm khắc trong giáo dục nhưng luôn khen ngợi, động viên khi các con học tốt. ‘Mỗi lần nhận nhuận bút, bố liền cho chúng tôi ra thị trấn ăn phở. Hồi đó, được ăn phở là điều vô cùng vui sướng.
Một lần, ông đưa hai anh đến một hàng rất ngon nhưng ông chỉ gọi 2 bát phở cho hai con, còn ông thì ngồi nhìn các con ăn’, anh Nguyễn Vũ Sơn, con trai nhà văn kể.
Cũng theo các con ông, bố Nguyên Hồng rất thích đi họp phụ huynh để biết tình hình học tập của các con. Các bạn đến nhà, ông đều khoe: ‘Các con tôi đứa nào cũng đứng nhất lớp!’…
‘Thực ra đâu có phải như thế. Chúng tôi chỉ trong tốp các bạn học khá nhất. Ông thường cường điệu lên một chút, khiến chúng tôi phát ngượng’, chị Nhã Nam cười nói.
Những ngày cuối đời
Tác phẩm đầu tay và là tác phẩm gây tiếng vang của ông là ‘Bỉ vỏ’ được viết khi tác giả mới 16 tuổi (Tác phẩm được giải thưởng danh giá thời đó là Giải thưởng Tự lực văn đoàn).
Chị Nhã Nam kể: ‘Đọc hồi ký ‘Bước đường viết văn’ của bố mới biết, thời kỳ đó ông vừa đi tù về, sau bao tháng ngày lao động khổ sai, đói rét, ra tù lại không có công việc làm. Mẹ con đưa nhau ra Hải Phòng tha hương cầu thực vẫn càng đói rét, thiếu thốn. Ông bị suy nhược cơ thể. Có lúc ông đã liên tưởng đến cái chết.
Trong bài ‘Tôi viết Bỉ vỏ’ ông đã nói: ‘Tôi chết đi, mới 16 tuổi, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào! Những lúc lo sợ bối rối đau đớn quá, trong tâm trí người ta hay nẩy ra những ước muốn khác thường’.
‘Tôi, tôi muốn sẽ có một cái gì để an ủi mãi mãi mẹ tôi và để tỏ lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những người và vật đã làm tôi vui thích đến say mê…’. Bỉ vỏ đã ra đời như thế.
‘Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà cứ chập tối là vang lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dào dạt trong những bụi mưa thấm thía.
Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, con xin dâng ‘Bỉ vỏ’ cho mẹ với cả tấm lòng kính mến trong sạch của con và xin tặng nó cho các bạn với tất cả cảm tình đằm thắm, tươi sáng của tôi’, Nguyên Hồng từng viết.
Theo Nguyễn Vũ Sơn, con trai ông thì Nguyên Hồng, suốt một đời vất vả, gian nan, nhiều thời kỳ phải nói là cực khổ nhưng lúc nào ông cũng đau đáu về tác phẩm.
Ông đã lao động nghệ thuật say mê, hết mình và bền bỉ như một người thợ cho đến giây phút cuối của cuộc đời.
Nguyễn Vũ Sơn kể: ‘Trước khi ngồi vào bàn viết văn, ông chuẩn bị rất cẩn thận: trải chiếu ra nền nhà, cái bàn viết bằng gỗ nhỏ được sắp xếp gọn với giấy viết, bút, nghiên mực… Tất cả chúng tôi đều hiểu, khi ông đã ngồi vào bàn viết là không được gây tiếng động, không được làm bất cứ việc gì phiền đến ông.
Nếu có khách, mẹ tôi thường ra mở cổng. Đôi khi bà phải nói dối là cha tôi không có nhà để ông có thể tập trung vào công việc. Mùa hè nóng chảy mồ hôi, mùa đông rét buốt ông vẫn miệt mài viết. Ông viết cho đến lúc mất…’, con trai nhà văn Nguyên Hồng nhớ lại.
Năm 1982, sau chuyến công tác tại Quảng Ninh, Nguyên Hồng trở về nhà ở Bắc Giang. Mấy hôm trời mưa, tường bếp bị mưa xói lở nên ông xuống suối lấy đất trộn với rơm để trát lại bếp. Đi công tác về mệt và làm việc quá độ khiến ông trở bệnh. Được vợ dìu vào nhà, ông nằm mê man và không tỉnh lại.
‘Lúc bố mất các con không ai ở cạnh, ông đi rất nhanh. Mẹ tôi chỉ nghe ông mấp máy môi mấy từ bằng hơi thở rất yếu: ‘Tiếc quá’, ‘Hội nhà văn’, ‘Bác sĩ’. Bố muốn mẹ gọi cho bác sĩ, gọi cho Hội nhà văn báo tin và điều ông nuối tiếc là gì? Có lẽ là tác phẩm mà ông chưa hoàn thành?
Ông đang viết về người anh hùng Hoàng Hoa Thám, bộ tiểu thuyết được ông dành rất nhiều tâm huyết và chuẩn bị tư liệu rất kỹ càng trong suốt mấy chục năm. Tập 1 đã xuất bản năm 1981, tập 2 đang còn dang dở… ‘, chị Nhã Nam cho biết.
Đó là một ngày đầu hè năm 1982, sự nghiệp của nhà văn ấy mãi mãi dừng lại ở trang 183 tập 2, trong bộ tiểu thuyết ‘Núi rừng Yên Thế’…
Sự nghiệp văn học
Các tác phẩm để đời của nhà văn Nguyên Hồng
– Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ.
– Các tác phẩm chính: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970).
– Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm.
– Văn bản Trong lòng mẹ được trích từ tập hồi kí Những ngày thơ ấu. Đây được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn.
- Hai dòng sữa (truyện ngắn, năm 1943);
- Bảy Hựu (truyện ngắn, năm 1941);
- Bỉ vỏ (tiểu thuyết, năm 1938)
- Cuộc sống (tiểu thuyết, năm 1942),
- Qua những màn tối (truyện, năm 1942);
- Hơi thở tàn (tiểu thuyết, năm 1943);
- Vực thẳm (truyện vừa, năm 1944);
- Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 197l);
- Đất nước yêu dấu (ký, năm 1949);
- Sông núi quê hương (thơ, năm 1973);
- Trời xanh (thơ, năm 1960)
- Ngọn lửa (truyện vừa, năm 1945);
- Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II, năm 1993);
- Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, năm 1973);
- Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, năm 1976);
- Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: năm 1983, Tập II: 1984, Tập III: 1985).
- Đàn chim non (tiểu thuyết, năm 1943);
- Trong lòng mẹ (Trích Những Ngày Ấu Thơ)
- Những ngày thơ ấu (hồi ký, đăng báo lần đầu 1938, xuất bản năm 1940);
- Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, năm 1946- 1961);
- Quán nải (tiểu thuyết, năm 1943);
- Sức sống của ngòi bút (tạp văn, năm 1963);
- Giữ thóc (truyện vừa, năm 1955);
- Miếng bánh (truyện ngắn, năm 1945);
- Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, năm 1978);
- Đêm giải phóng (truyện vừa, năm 1951);
- Giọt máu (truyện ngắn, năm 1956);
- Sóng gầm (tiểu thuyết, 196l);
- Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, năm 1963);
- Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, năm 1972),
- Một tuổi thơ văn (hồi ký, năm 1973);
- Thù nhà nợ nước. (tập I, trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế, năm 1981);
Xem thêm: TOP 29+ Sách Hay Nên Đọc Mỗi Ngày Không Bao Giờ Lỗi Thời
Phong cách nghệ thuật
– Đối tượng sáng tác: những con người nhỏ bé, những lớp người dưới đáy của xã hội thành thị. Ông xứng đáng được coi là nhà văn chân chính của những người khốn khổ. Một tình cảm nhân đạo thiết tha đối với quần chúng lao động nghèo thấm đượm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn.
– Được mệnh danh là nhà văn của những người cùng khổ với biệt hiệu “Nhà văn của phụ nữ và trẻ em”.
– Là nhà văn của niềm tin và ánh sáng, luôn đi tìm vẻ đẹp của con người trong khổ đau, khám phá chất thơ của đời sống cần lao.
– Giọng điệu trữ tình vừa bồng bột thiết tha, vừa sôi nổi mãnh liệt.
Giải thưởng đạt được
– Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Nhà văn Nguyên Hồng và những chuyện chưa kể
Nhà văn Nguyên Hồng là người có thói quen ghi nhật ký, trong những cuốn sổ tay của ông để lại mà gia đình có được, những trang nhật ký được bắt đầu từ năm 1941 và kéo dài đến cuối năm 1981.
Qua những trang nhật ký của nhà văn, ta thấy hiển hiện cả một thời đại sống động và chân thực, trong đó nền văn học nước nhà trong suốt nửa đầu thế kỷ XX là rõ ràng hơn cả.
Nguyên Hồng dẫn dắt người đọc bước qua phần nào cuộc đời của những nhà văn thế hệ ấy, biết được họ đã từng sống và viết như thế nào.
“Nhật ký như là một phần cuộc sống của cha tôi. Ông viết hầu như là hàng ngày. Hay đúng hơn là hầu như mỗi sự kiện trong đời đều được ông ghi lại. Về gia đình, về các con, về người vợ thông minh nhưng gầy yếu, về người mẹ hiền từ, về bạn bè văn chương, về công việc viết lách cũng như công tác đoàn thể, về những sự kiện lớn trong nước và quốc tế, về những nhân vật mà ông bỏ nhiều công sức tìm hiểu cũng như những con người mà ông gặp hàng ngày, về những ước mơ hay dự định.”
Năm 24 tuổi, nhà văn thành hôn với bà Vũ Thị Mùi, một người phụ nữ thông minh và lãng mạn. Bà biết tiếng Pháp, thích ngâm thơ nên dễ tìm thấy sự đồng điệu ở Nguyên Hồng, hai ông bà thường cùng nhau đọc thơ vào những lúc nhàn rỗi.
“Họ nên duyên từ một lần, bố thuê người ta đan cho một chiếc áo len. Tuy nhiên, người này bận nên giới thiệu cho mẹ tôi đan. Mẹ tôi từ trước đã rất ngưỡng mộ tác giả của tiểu thuyết Bỉ vỏ nên nhận lời ngay.”
Khác với các văn nghệ sĩ dành phần nhiều thời gian sáng tác, việc cơm áo gạo tiền để vợ lo toan thì Nguyên Hồng lại đỡ đần vợ rất nhiều trong cuộc sống.
”Mẹ tôi sức khỏe yếu và bận chăm nom bảy người con, công việc nhà như đi chợ, giặt quần áo, cơm nước… bố tôi thường không nề hà mà hay đỡ đần mẹ. Tôi nhớ có những ngày mẹ mệt, bố tôi rời trang bản thảo, liền bê ngay chậu quần áo lớn xuống suối giặt. Biết mẹ thích uống chè, nhà được ai biếu lạng nào, ông đều để phần và nhường cho bà dùng.”
Với đam mê đọc sách từ nhỏ nên dù gia đình luôn túng thiếu nhưng trong nhà ông vẫn luôn có hai tủ sách, trong đó chủ yếu gồm sách kinh điển được dịch bằng tiếng Việt dành cho các con và sách tiếng Pháp cho ông.
“Mỗi lần xuống Hà Nội giao bản thảo hay lấy tiền nhuận sách, ông đều mua sách về cho các con đọc.”
– Lời của chị Nhã Nam, con gái Nguyên Hồng kể lại
Các con ông vẫn nhớ như in hình ảnh người cha khắc khổ đạp xe từ Cầu Đen, Bắc Giang xuống Hà Nội, phía sau là chiếc cặp to đựng bản thảo và ít đồ ăn đạm bạc nhưng khi về trong hành lý của ông ngoài các tài liệu và các nhu yếu phẩm của gia đình bao giờ cũng có vài cuốn sách cho các con.
Đối với Nguyên Hồng, mỗi cuốn sách đều đáng quí, đáng trân trọng, ông nâng niu, gìn giữ vô cùng và yêu cầu các con khi cầm sách đọc cũng phải cẩn thận không được bẻ sách, đọc xong phải xếp ngay ngắn để khi cần có thể thấy ngay.
Nguyên Hồng là người rất coi trọng bạn bè, khi ông cùng gia đình chuyển từ Hà Nội về Bắc Giang sinh sống năm 1959, các bạn văn nghệ sĩ hay lên chơi. Các nhà văn Nguyễn Tuân, nhà văn Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng thường viết thư hẹn gặp nhau.
Với nhà văn Nguyễn Tuân, dù tính cách rất trái ngược như Nguyễn Tuân đã nói với Nguyên Hồng từ khi hai người mới quen nhau thời trẻ:
”Tôi là một người thích phá đình, phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông…”
Ấy vậy nhưng họ lại rất yêu quí và nể trọng nhau.
Nguyên Hồng về Hà Nội bao giờ cũng phải gặp Nguyễn Tuân, đôi khi chỉ là để uống với nhau cốc bia, nói vài câu chuyện, tin tức.
Ngày Nguyên Hồng mất, nhà văn Nguyễn Tuân rất đau lòng, Nguyễn Tuân lên Bắc Giang khi đám tang đã xong được một ngày. Trước nấm mồ người bạn, ông đã đau xót tưới lên đó những chén rượu quê.
Ông đã lao động nghệ thuật say mê, hết mình và bền bỉ như một người thợ cho đến giây phút cuối của cuộc đời.
“Trước khi ngồi vào bàn viết văn, ông chuẩn bị rất cẩn thận: trải chiếu ra nền nhà, cái bàn viết bằng gỗ nhỏ được sắp xếp gọn với giấy viết, bút, nghiên mực… Tất cả chúng tôi đều hiểu, khi ông đã ngồi vào bàn viết là không được gây tiếng động, không được làm bất cứ việc gì phiền đến ông.”
Năm 1982, sau chuyến công tác tại Quảng Ninh, Nguyên Hồng trở về nhà ở Bắc Giang. Mấy hôm trời mưa, tường bếp bị mưa xói lở nên ông xuống suối lấy đất trộn với rơm để trát lại bếp. Đi công tác về mệt và làm việc quá độ khiến ông trở bệnh, được vợ dìu vào nhà, ông nằm mê man và không tỉnh lại.
Con trai ông sau này có kể lại, lúc Nguyên Hồng mất các con không ai ở cạnh, ông đi rất nhanh. Bà Mùi chỉ nghe ông mấp máy môi mấy từ bằng hơi thở rất yếu: “Tiếc quá”, “Hội nhà văn, “Bác sĩ”.
Ông muốn vợ gọi cho bác sĩ, gọi cho Hội nhà văn báo tin và điều ông nuối tiếc là gì? Có lẽ là tác phẩm mà ông chưa hoàn thành?